Sự tác động của Trí tuệ nhân tạo đến pháp luật hình sự (phần 1)
Ngày đăng : 09:07, 20/02/2022
Trí tuệ nhân tạo hay trí thông minh nhân tạo có tên tiếng Anh là artificial intelligence hay machine intelligence, thường được viết tắt là AI, là trí tuệ được biểu diễn bởi bất cứ một hệ thống nhân tạo nào. Thuật ngữ này thường dùng để nói đến các máy tính có mục đích không nhất định và ngành khoa học nghiên cứu về các lý thuyết và ứng dụng của trí tuệ nhân tạo. Tóm lại, Trí tuệ nhân tạo (AI) được hiểu một cách đơn giản là sự tư duy của máy móc, trong đó các thiết bị sẽ bắt chước cách tư duy tự nhiên của con người để giải quyết các vấn đề.
Bên cạnh việc thừa nhận một cách tất yếu và khách quan những đóng góp to lớn của Trí tuệ nhân tạo đối với sự phát triển chung của xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh trật tự, thì trí tuệ nhân tạo cũng tạo ra không ít khó khăn cho cuộc sống con người và cả những thách thức không hề nhỏ cho hệ thống pháp luật, khi tội phạm đã lợi dụng trí tuệ nhân tạo để thay đổi và phát triển cách thức thực hiện hành vi.
Sử dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác phát hiện và quản lý tội phạm
Thứ nhất, sử dụng trí tuệ nhân tạo để phòng, chống tội phạm hiệu quả hơn
Một là, sử dụng trí tuệ nhân tạo để phòng ngừa việc tiếp tục thực hiện tội phạm từ chủ thể có dấu hiệu khả nghi: Công nghệ hiện đại giờ đây có thể cho phép các nhà điều tra dự báo và ngăn chặn tội ác trước khi nó diễn ra. Cảnh báo người phạm tội có dấu hiệu tiếp tục thực hiện hành vi - Chương trình này được gọi là PredPol, nó tính toán các dự báo dựa trên thời gian và địa điểm các vụ phạm tội đã từng xảy ra trước đó, kết hợp cùng với những thông tin xã hội học về hành vi và hình mẫu của các vụ phạm pháp. Công nghệ này được thử nghiệm ở khu vực Santa Cruz, thuộc cảnh sát bang California (Mỹ) suốt 1 năm qua và trong 6 tháng gần đây bởi cảnh sát Los Angeles đã cho thấy một kết quả đầy hứa hẹn. Hệ thống giám sát mới có tên Domain Awareness System (DAS) do Microsoft phát triển có thể cung cấp ngay lập tức một số lượng lớn thông tin cho nhân viên an ninh về những đối tượng mà họ đang theo dõi, vượt trội hẳn so với các mạng lưới camera giám sát đơn giản. Không chỉ cung cấp dữ liệu video trực tiếp mà hệ thống cũng sẽ ngay lập tức hiển thị hồ sơ tiền án của các đối tượng liên quan trong khu vực và các dữ liệu khác hình thành nên một bức chân dung của cá nhân đang bị giám sát. Thậm chí ô tô liên quan đến một nghi phạm cũng sẽ được hiển thị thông tin đã ở đâu vài tháng trước đó. Với cách thức như vậy, hệ thống sẽ giúp các nhân viên điều tra có thể “tua” lại đoạn phim truy tìm những người còn lại trong bất kì vụ việc đáng nghi nào. Có thể nói, hệ thống trên là một công cụ sáng tạo, hứa hẹn một cuộc cách mạng hóa trong việc thực thi pháp luật, hoạt động tình báo và an toàn công cộng.
Công nghệ AI cũng cho phép cảnh sát lấy “dấu vân tay” trong não của người phạm tội. Kí ức tội ác mãi mãi hằn sâu trong não tên tội phạm. Vấn đề là làm sao lấy được những thông tin đó để trình ra trước tòa. Lấy “dấu vân tay” não hay dấu điểm chỉ não (Brain Fingerprinting), một phát minh hoàn toàn mới cho ngành tội phạm học đã giải quyết được phần nào điểm mấu chốt đó. Trong công nghệ này người ta đeo lên đầu nghi phạm một thiết bị đo điện não đồ rồi đặt hắn ngồi trước màn hình vô tuyến điện. Trên màn hình hiện lên quang cảnh nơi xảy ra vụ án, màn hình có thể hiện lên xác nạn nhân hoặc một tiểu tiết nào đó của vụ án. Nếu là người ngay, điện não đồ sẽ chạy bình thường. Nếu là kẻ gian, đường điện não sẽ nhảy dựng lên bất thường trong khoảng 0,3 đến 0,5 giây rồi mới trở lại bình thường. Xung điện não bất thường đó chính là cảm giác “nhột” của tên tội phạm. Nếu không có thiết bị đo điện não đồ như trên thì chỉ có những điều tra viên giàu kinh nghiệm mới cảm thấy được điều đó.
Tương tự như vậy, tại Dubai, lực lượng Cảnh sát cũng đã chính thức đưa ra kế hoạch ứng dụng trí tuệ nhân tạo gồm việc đưa hệ thống robot thực hiện tuần tra kiểm soát và cài đặt các phần mềm Dự báo tình hình tội phạm nhằm “quét sạch tội phạm”. Theo Công ty SIME(Space Imaging Middle East). Phần mềm này là một công cụ hỗ trợ tuyệt vời với cảnh sát, có khả năng phân biệt chính xác các mô hình của các hành vi tội phạm ngay cả khi chúng gần như không có liên hệ tới các sự kiện và sau đó dự đoán khả năng tái diễn của chúng. Trí tuệ nhân tạo giúp đưa những phân tích chính xác và khi kết hợp với kiến thức và năng lực kinh nghiệm của lực lượng cảnh sát sẽ nhanh chóng tìm ra những dấu vết, đầu mối quan trọng của tội phạm, góp phần đáng kể cải thiện hiệu quả công tác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra.
Thứ hai, sử dụng trí tuệ nhân tạo để quản lý nhà tù
Nhà tù Diêm Thành (Yancheng) ở tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc được trang bị camera giám sát dựa trên trí tuệ nhân tạo. Đây là nơi giam giữ khoảng 1.600 phạm nhân với hàng loạt những cái tên từng là các nhân vật cộm cán trên chính trường Trung Quốc như Cốc Khai Lai - vợ của cựu Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai đang thụ án chung thân vì sát hại một doanh nhân Anh, Nhuế Thành Cương - phóng viên nổi tiếng của CCTV bị bắt giữ không rõ lý do vào năm 2014, Trương Thự Quang - cựu phó kỹ sư trưởng Bộ Đường sắt hay Nam Dũng - cựu Phó chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Trung Quốc và một số phạm nhân ngoại quốc. Nhà tù an ninh cao cấp Diêm Thành (Yancheng) có khoảng 1.600 tù nhân, trực thuộc Bộ tư pháp Trung Quốc. Các phòng giam được trang bị không chỉ với hệ thống giám sát với hệ nhận diện khuôn mặt, mà còn có cảm biến thông minh. Mạng nơ ron được dạy để nhận ra hành động của tội phạm và dự đoán nguy cơ trốn thoát. Trong trường hợp có hoạt động đáng ngờ, thuật toán sẽ bật còi báo động, sẽ thông báo cho lính canh. Công nghệ thông minh cũng sẽ loại bỏ khả năng hối lộ. Ngay cả khi tù nhân mua chuộc người giám sát, anh ta vẫn sẽ không thể có tác động gì đến hoạt động của thuật toán. “Hệ thống "nhà tù" thông minh mới bao gồm mạng lưới các camera giám sát và cảm biến bí mật hoạt động như các "nơ-ron thần kinh". Một máy chủ được tích hợp trí tuệ nhân tạo sẽ có vai trò như "não bộ" thu nhận dữ liệu truyền về từ các nơ-ron thần kinh này, qua đó giám sát tất cả các tù nhân 24/24. Tới cuối ngày, hệ thống sẽ trả ra một báo cáo toàn diện phân tích hành vi, chuyển động của các phạm nhân trong ngày. Nếu một phạm nhân nhấp nhổm liên tục trong phòng giam trong một thời gian dài, hành động này sẽ bị dán nhãn đáng ngờ về lập tức gửi thông báo cho quản giáo”.
Những khó khăn của công tác phòng và đấu tranh chống tội phạm do ảnh hưởng từ Trí tuệ nhân tạo
Tội phạm sử dụng trí tuệ nhân tạo để tạo ra các hình ảnh, video có nội dung phản cảm phục vụ cho mục đích chính trị hoặc ăn cắp danh tính để trục lợi xâm hại đến quyền lợi cá nhân, tổ chức và nhà nước
Vì lợi ích của trí tuệ nhân tạo là vô cùng lớn, nên nhiều hãng công nghệ và các chuyên gia công nghệ cao đã tạo ra những sản phẩm từ nó nhằm mục đích mang lại nhiều giá trị cho con người. Chúng ta dễ dàng nhận thức được điều này thông qua một số sản phẩm của trí tuệ nhân tạo như: “Sophia, nữ robot hình người, thông minh nhất thế giới, cũng là Robot đầu tiên được cấp thẻ visa (có thể đảm nhận một số công tác ngoại giao với cách thức nói chuyện và biểu hiện cảm xúc như con người thật) hoặc Phát thanh viên AI đầu tiên trên thế giới, đã được hãng thông tấn quốc gia Trung Quốc cho ra mắt, để dẫn chương trình thời sự bằng trí tuệ nhân tạo (AI) với vẻ ngoài và cách dẫn tin hệt như con người (AI có thể tự đọc dẫn và biên tập tin tức bằng Tiếng Anh và Tiếng Trung Quốc)”. Tuy nhiên, bên cạnh những sản phẩm được tạo ra từ AI để phục vụ cho mục đích tốt, thì AI cũng tạo ra những sản phẩm có sức hấp dẫn đối với tội phạm, khi chúng được sử dụng như là những công cụ, phương tiện thực hiện hành vi gây ra nhiều nguy hiểm. Một trong số sản phẩm đó của AI gồm có Deepfake.
Từ cuối năm 2017, các phương tiện truyền thông đã đề cập tới Deepfake được xây dựng dựa trên nền tảng machine learning mã nguồn mở của Google. Nó sẽ quét video và ảnh chân dung của một người, hợp nhất nó với video riêng biệt nhờ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và thay thế chi tiết trên gương mặt như mắt, miệng... Nói tóm lại, Deepfake có thể gán khuôn mặt của một người này sang cho một người khác trong video với độ chân thực gần như tuyệt đối. Peter Eckersley, chuyên gia khoa học máy tính của tổ chức Electronic Frontier Foundation (EFF), tác giả của tài liệu mang tên “Làn sóng video giả mạo sẽ được sử dụng cho mục đích chính trị và cách để bảo vệ nền dân chủ trước những rủi ro” đã giải thích thuật ngữ “Deepfake” là sự kết hợp giữ “deep learning” và “fake” đã được sử dụng rộng rãi sau khi một thành viên vô danh trên diễn đàn mở Reddit tạo nên chương trình Deepfakesapp giúp hoán đổi gương mặt vào video gốc. Sau đó, một thành viên khác của Reddit đã phát hành phiên bản cải tiến gọi là FakeApp.
Đó là sự tiến hóa của công nghệ như cách Adobe Photoshop xuất hiện cách đây 30 năm. Ban đầu, deepfake chỉ là trò đùa vui nhộn trên mạng Internet với hàng loạt ảnh chế, ghép gương mặt Nicolas Cage vào nữ nhân vật Luis Lane trong bộ phim Superman. Với ưu điểm phát triển trên nền tảng mã nguồn mở và dễ tiếp cận, Deepfake dần trở nên phổ biến hơn và gây náo động trên Reddit, Twitter và các trang như Pornhub, Discord, Gfycat để cấm các nội dung ứng dụng công nghệ Deepfake. Công nghệ Deepfake hiện nay có thể chỉ dừng lại những trò chơi khăm hay phục vụ cho mục đích giải trí, nhưng nó cũng có thể bị lợi dụng để phục vụ cho những mục đích chính trị xấu xa. Các trang khiêu dâm bắt đầu dày đặc đoạn phim nội dung người lớn với gương mặt của Gal Gadot, Emma Watson hay Taylor Swift là một ví dụ về nạn nhân của công nghệ này.
Theo đánh giá của một số nhà khoa học máy tính, những video Deepfake có nội dung người lớn sẽ tạo ra một mối đe dọa lớn đối với xã hội. Khi công nghệ phát triển hơn vào những năm tới, khó có thể phân biệt đâu là video có nội dung giả mạo. Chính vì thế, Một chuyên gia công nghệ Trung tâm Trách nhiệm Truyền thông Xã hội của Đại học Michigan đã chia sẻ mối quan ngại: “Tôi lo rằng vấn đề nghiêm trọng là sự suy giảm lòng tin vào tin tức vì công nghệ Deepfake đang ngày càng dễ dàng hơn để tiếp cận và có thể gây ra những vụ bê bối tình dục, tội ác, tham nhũng...”. Mặc dù nhận thức về hiểm họa của Deepfake, nhưng những video giả mạo vẫn được phát tán trên nhiều ngõ ngách của mạng Internet.
Những cảnh báo liên quan đến luật pháp rõ ràng là cần được lưu ý, bởi vì nó không thể phát triển nhanh để theo kịp công nghệ. Với công nghệ Deepfake, những hiệu ứng hoán đổi khuôn mặt trước đây chỉ nằm trong tay các chuyên gia phim ảnh thì nay lại thực hiện được ngay trên máy tính cá nhân. Bất kỳ ai cũng có thể biến bức ảnh, bản ghi âm, video thành những đoạn phim giả mạo như công cụ để truyền bá những thông tin sai lệch. Điều gì sẽ xảy ra nếu đoạn phim về một vị Tổng thống trên giường với gái mại dâm hay chính trị gia đưa ra phát ngôn mang tính phân biệt chủng tộc?
Tội phạm sử dụng các sản phẩm của trí tuệ nhân tạo để thay đổi, phát triển phương thức, thủ đoạn phạm tội
Thứ nhất, sử dụng máy bay không người lái để vận chuyển ma túy hoặc các hàng cấm hoặc thực hiện các phi vụ khủng bố hay nguy hại đến sự an toàn về an ninh.
Máy bay không người lái tên tiếng Anh là "drone" hay "UAV" (unmanned aerial vehicle). Theo Cục Quản lý hàng không liên bang Mỹ (FAA), máy bay không người lái có thể có nhiều hình dạng, kích thước và phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Nó có thể có sải cánh rộng như một máy bay phản lực hay chỉ nhỏ như một chiếc máy bay mô hình điều khiển bằng sóng radio. Ngoài sử dụng cho mục đích quân sự, UAV còn được dùng cho mục đích dân sự như giao hàng, quay phim, chụp không ảnh... Máy bay không người lái đã mang lại một số lợi ích trong việc cứu hộ tại các thảm họa như cháy rừng, thiên tai, bảo vệ động vật hoang dã (ở một vài khu bảo tồn tại Mỹ và Sumatra, Indonesia), sử dụng trong nông nghiệp (rải phân bón, thuốc trừ sâu...). Tuy nhiên, hiện nay Drone khiến nhiều quốc gia lo ngại vì nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh, an toàn.
Một loại ví dụ dưới đây là sẽ những bằng chứng thuyết phục để cho thấy, sự lo ngại đó là hoàn toàn có cơ sở:
Trường hợp 1: Sử dụng Drone để chở vũ khí. Hiện có những video bằng chứng cho thấy drone chở cưa máy, súng máy và súng phóng hỏa. Drone có thể còn được sử dụng để triển khai vũ khí hóa học, ném bom, thậm chí tấn công hạt nhân.
Trường hợp 2, sử dụng drone cho phục vụ cho hoạt động gián điệp. Hiện nay drone đã được tội phạm sử dụng cho hoạt động gián điệp ở mức độ thấp và mức độ cao. Ở mức độ thấp drone có thể là để lấy thông tin về tài chính, chiến lược, sơ đồ công nghệ... của các công ty đối thủ qua các hình ảnh nó chụp được. Hoạt động gián điệp tầm công nghệ cao có thể được sử dụng để tấn công máy tính gây thiệt hại nặng nề nhất lại liên quan đến drone. Ví dụ, có nhiều báo cáo về việc drone đã mang Raspberry Pi (một loại máy tính rất nhỏ gọn, kích thước hai cạnh bằng khoảng một cái thẻ ATM và chạy hệ điều hành Linux-PV) hạ cánh xuống một trung tâm dữ liệu và đánh cắp thông tin nhạy cảm.
Trường hợp 3, sử dụng drone để buôn lậu. Nhiều nhà tù trên khắp nước Mỹ đang nỗ lực ngăn chặn drone buôn lậu mọi thứ từ ma túy, sách báo phim ảnh khiêu dâm và điện thoại thông minh đến cho các tù nhân. Hay như các băng đảng ma túy sử dụng drone để vận chuyển hàng hóa của chúng qua biên giới Mexico.
Thứ hai, sử dụng Ôtô tự lái để biến thành địa điểm di động phục vụ cho hoạt động mại dâm hoặc các dịch vụ bất hợp pháp.
Năm 2018 đánh dấu bước ngoặt khi ngoài các ông lớn đã có ứng dụng công nghệ xe ô tô tự lái còn có hoạt động nghiên cứu chuyên sâu của Google, Apple… Tùy thuộc vào mỗi công nghệ mà nhà sản xuất ô tô lựa chọn mà mức độ hoạt động xe tự lái sẽ là ở mức nào. Mức độ hoạt động xe tự lái được đánh giá từ 0 đến 5 bậc. Theo đánh giá của các chuyên gia, mức độ của xe tự lái hiện tại là mới đạt tới đỉnh của mức 3. Cấp độ 3 của ô tô tự lái là khi xe ô tô bắt đầu kiểm soát hầu hết các chức năng, người lái xe có thể không cần cầm lái, chỉ cần kiểm soát hoạt động xe tự lái. Ở thời điểm hiện tại, xe ô tô tự lái mới chỉ hỗ trợ người lái xe một phần nhằm giảm thiểu áp lực cho người lái xe, giảm nguy cơ gây tai nạn như lái xe bất cẩn, buồn ngủ, ngủ gật… Trong tương lai xe ô tô tự lái sẽ được ứng dụng nhiều hơn và công nghệ xe ô tô tự lái sẽ được nâng cấp hơn, xe sẽ hoàn toàn tự hành mà không cần sự điều khiển của người lái xe. Như vậy, xe ô tô tự lái ra đời là một trong những bước tiến của nhân loại nhờ vào trí tuệ nhân tạo. Mục đích của sự phát minh này là nhằm hỗ trợ người lái xử lý tốt những tác vụ phức tạp trong hành trình di chuyển, hạn chế các va chạm, sự cố giao thông và nâng cao mức hưởng thụ cuộc sống của con người. Tuy nhiên, phát minh này cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của loài người trong tương lai, khi đã có những bằng chứng thực tế cho thấy ô tô không người lái được sử dụng cho những mục đích bất hợp pháp.
Một nghiên cứu được công bố trên số ra gần đây nhất của tạp chí Annals of Tourism Research dự báo, khi những chiếc xe tự lái trở thành phương tiện giao thông mới, mọi người sẽ có nhiều cơ hội để ăn, ngủ và thậm chí hoạt động tình dục ngay trên xe. Scott Cohen, người đứng đầu nghiên cứu cho tạp chí Fast Company biết: "Điều đó không quá khó để tưởng tượng ra rằng, trong một tương lai không quá quá xa sẽ xuất hiện những khu đèn đỏ lưu động. Mại dâm không cần phải được cấp phép để thực hiện điều này. Nhiều hoạt động phi pháp cũng có thể sẽ xảy ra trong xe hơi. Tại những nơi coi hoạt động mại dâm là hợp pháp, và thường xuyên sẽ thúc đẩy hình thức mại dâm trên đường phát triển nhanh chóng, và châu Âu là một trong những nơi đó." Phát biểu trên tạp chí, Cohen cũng cho biết: theo báo cáo, đã có tổng số 60% người Mỹ có quan hệ tình dục trong xe hơi, vì vậy, trên xe tự lái, mối quan hệ này sẽ càng trở nên phổ biến hơn vào những năm 2040.
Thứ ba, phát sinh việc xác định hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với tội phạm xảy ra trên không gian ảo (không gian mạng) và nơi thực hiện tội phạm.
Theo quan niệm truyền thống, nơi thực hiện hay nơi xảy ra hậu quả của tội phạm phải là một địa điểm cụ thể nào đó, nhưng ở các tội phạm phi truyền thống trong thời đại Cách mạng công nghệ 4.0 thì những điều đó có thể diễn ra ở một không gian ảo - tức là không thuộc bất cứ một địa điểm hay lãnh thổ của quốc gia hay vùng quốc tế nào. Trong khi việc xác định vấn đề này là cần thiết, vì nó liên quan đến thẩm quyền tài phán của quốc gia dựa trên nguyên tắc lãnh thổ và vấn đề thu thập tài liệu chứng cứ trong quá trình tiến hành tố tụng.
“Không gian mạng hay không gian ảo (Cyberspace) là nơi các máy tính trao đổi dữ liệu, thông tin. Không gian mạng được xem như một trải nghiệm xã hội, các cá nhân có thể tương tác, trao đổi ý kiến, chia sẻ thông tin,... Ngoài những thiệt hại là các giá trị vật chất, tinh thần như tội phạm truyền thống, các tội phạm phi truyền thống còn có thể gây ra những thiệt hại bằng các giá trị ảo (các loại tài sản ảo mà việc thừa nhận hay không và quy chế pháp lý còn khác biệt ở các quốc gia). Chẳng hạn, đó là các hành vi lợi dụng sử dụng tiền ảo Bitcoin để phạm tội”. Liên quan đến vấn đề không gian ảo, thì ở một số tội phạm truyền thống như đánh bạc, tổ chức đánh bạc cũng đã lợi dụng không gian mạng để đánh bạc qua mạng có quy mô xuyên quốc gia. Để đối phó với sự quản lý, chúng thường đặt máy chủ ở nước ngoài thuê đường truyền internet cáp quang tốc độ cao, thiết lập mạng ảo được mã hóa phức tạp lập ra hàng nghìn website chuyên tổ chức cá độ, đánh bạc. Trong khi đó, về nơi thực hiện tội phạm, mặc dù BLHS Việt nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định về thẩm quyền mở rộng đối với một số hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại các vùng biển đặc quyền kinh tế, thềm lục địa... tại đoạn 2, khoản 1, Điều 5, những “rõ ràng quy định này vẫn chưa bao quát một số trường hợp xảy ra như trường hợp có đồng phạm, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt... để giải quyết bài toán về hành vi phạm tội gây hậu quả cho xã hội ở một hoặc nhiều nơi khác nhưng những hoạt động đã nêu lại không xử lý được khi bị phát hiện vì xảy ra nơi khác”.
Với một số ví dụ thực tiễn trên đã cho thấy một điều rõ ràng trong Cách mạng công nghệ 4.0 với trí tuệ nhân tạo đã tạo ra không ít thách thức cho việc xây dựng hệ thống quy định pháp luật phù hợp và sự đổi mới tư duy lẫn phương thức hành động để xử lý tội phạm phi truyền thống...