Kết quả kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của VKSND và phương hướng, giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới

Ngày đăng : 08:00, 14/07/2022

(Kiemsat.vn) - Trong bối cảnh công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp đang diễn ra mạnh mẽ, Viện kiểm sát nhân dân đặc biệt quan tâm đến công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh. Thực tiễn những năm qua cho thấy, ngành Kiểm sát tiếp tục đổi mới về lý luận, nhận thức công tác kiểm sát thực chất là công tác chính trị, tránh tư tưởng pháp lý đơn thuần. Đây là quan điểm chính trị, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển của ngành KSND

Những năm qua, ngành Kiểm sát không ngừng đẩy mạnh việc rà soát, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn đầu mối, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường và gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị với công tác tổ chức cán bộ, công tác xây dựng Ngành và công tác chuyên môn nghiệp vụ; phát huy vai trò và bản lĩnh của người đứng đầu đơn vị với phương châm: “Lãnh đạo phải công tâm, công bằng, gương mẫu và cấp dưới phải trung thực, trách nhiệm, tận tụy”. Ngành Kiểm sát đã chú trọng luân chuyển, chuyển đổi, điều động, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý để rèn luyện, thử thách và đào tạo toàn diện, nhất là đối với cán bộ cấp chiến lược. Đây là bước đột phá, là biện pháp cần thiết góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cho Viện kiểm sát các cấp.

1. Kết quả kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân

Xác định công tác tổ chức cán bộ là công tác quan trọng hàng đầu, là khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành, Ban cán sự đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao đã ban hành nhiều Nghị quyết về tăng cường công tác luân chuyển, điều động, biệt phái Kiểm sát viên từ VKSND tối cao, VKSND cấp cao xuống địa phương, cơ sở cũng như lựa chọn, điều động một số cán bộ có kinh nghiệm ở cơ sở về VKSND tối cao, cấp cao; đồng thời đưa một số cán bộ lãnh đạo cấp vụ về làm Viện trưởng địa phương; Nghị quyết về chuyển đổi, bố trí vị trí công tác đối với cán bộ nhằm khắc phục sự trì trệ “ở quá lâu tại một vị trí, lĩnh vực công tác” và chủ động phòng ngừa vi phạm chung, chú ý những đơn vị dễ phát sinh tiêu cực. Đồng thời, chỉ đạo rà soát, xây dựng quy hoạch cán bộ, nhất là quy hoạch cán bộ cấp chiến lược của Ngành; tăng cường hướng dẫn công tác quy hoạch cán bộ cấp địa phương để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức được quy hoạch. Nhiều đồng chí Viện trưởng VKSND các cấp được cơ cấu bầu vào cấp ủy các cấp, tham gia ứng cử Đại biểu Quốc hội, tạo thuận lợi cho VKSND thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo luật định.

Điểm nổi bật khác trong công tác tổ chức, cán bộ là đã đẩy mạnh phân cấp trong quản lý cán bộ, nhưng thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc, hướng dẫn, chấn chỉnh; đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bổ nhiệm. Đồng thời, cải tiến, đổi mới và tăng cường quản lý việc tổ chức các kỳ thi tuyển công chức, thi tuyển các chức danh tư pháp, đảm bảo công khai, minh bạch, cạnh tranh; tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đề cao tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ... Việc thi tuyển chức danh tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân thời gian qua cho thấy yêu cầu về chất lượng cán bộ ngày càng được nâng cao; công chức trúng tuyển và được bổ nhiệm chức danh tư pháp đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện và chính trị, phẩm chất đạo đức nên có chất lượng ngày càng tốt hơn.

Bộ máy làm việc của VKSND được kiện toàn tương đối đồng bộ và thống nhất từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, dần đưa các khâu công tác theo hướng chuyên sâu, tạo điều kiện thuận lợi cho VKSND các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể như sau:

Về tổ chức bộ máy của VKSND tối cao: Thực hiện Nghị quyết số 951/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ cấu tổ chức bộ máy của VKSND tối cao gồm: Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao, 25 đơn vị cấp Vụ và Viện kiểm sát quân sự Trung ương. Đơn vị cấp phòng cũng được kiện toàn (102 đơn vị), trong đó, Cơ quan điều tra VKSND tối cao được bổ sung từ 05 lên 10 phòng nghiệp vụ, hoạt động trên phạm vi cả nước để đáp ứng yêu cầu mở rộng phạm vi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định mới của Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

Ngoài ra, sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giám định tư pháp có hiệu lực, ngày 25/02/2021, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Quyết định thành lập Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc VKSND tối cao. Quyết định của Viện trưởng đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết phê chuẩn. Đây chính là mốc son để ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền năng pháp lý, phục vụ nhiệm vụ công tác của Ngành.

Về tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao, gồm: Ủy ban kiểm sát VKSND cấp cao, Văn phòng, các Viện nghiệp vụ, phòng nghiệp vụ trực thuộc các Viện nghiệp vụ. Do yêu cầu nhiệm vụ, ngày 16/3/2017, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành quyết định tách Viện kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ, việc kinh doanh thương mại, lao động (Viện 3) thuộc VKSND cấp cao tại Hà Nội và VKSND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thành 02 Viện nghiệp vụ gồm: Viện kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính (Viện 3) và Viện kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc kinh doanh thương mại, lao động (Viện 4).

Về tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh, gồm: Ủy ban kiểm sát, Văn phòng và các phòng chuyên môn nghiệp vụ. Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Hướng dẫn số 37/HD-VKSTC ngày 28/11/2019 về việc sắp xếp tổ chức bộ máy cấp phòng của VKSND cấp tỉnh theo nguyên tắc giảm đầu mối các đơn vị có tính chất nhiệm vụ tương đồng, những đơn vị cấp phòng có số lượng công chức ít, khối lượng công việc không nhiều nhằm đáp ứng yêu cầu điều hành công việc, sử dụng, phát huy hiệu quả nguồn nhân lực hiện có, phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị, địa phương. Theo đó, số phòng của VKSND cấp tỉnh hiện có là 554 phòng, sáp nhập giảm 171 đơn vị (so với thời gian trước giảm 143 phòng). Hiện cơ cấu các phòng và tương đương ở VKSND cấp tỉnh cơ bản đã được bố trí phù hợp với đặc điểm tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và khối lượng công việc của từng đơn vị.

Về tổ chức bộ máy của VKSND cấp huyện, gồm 03 bộ phận: Kiểm sát hình sự; kiểm sát dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại; kiểm sát thi hành án, khiếu tố và văn phòng tổng hợp. Theo Quy định số 03/QĐ-VKSTC-V15 ngày 22/12/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao, cơ cấu bộ máy của VKSND cấp huyện có đủ điều kiện thành lập cấp phòng, tuy nhiên, hiện chưa có VKSND cấp huyện nào thành lập được cấp phòng. Đến nay, số lượng VKSND cấp huyện được sắp xếp, sáp nhập từ 710 đơn vị xuống còn 702 đơn vị.

Về số lượng biên chế, cơ cấu tỉ lệ các chức danh tư pháp của VKSND, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn công tác tại mỗi cấp kiểm sát, Viện trưởng VKSND tối cao đã điều chỉnh biên chế, cơ cấu Kiểm sát viên, Điều tra viên của VKSND các cấp trong tổng số 15.860 biên chế được giao; đến nay, biên chế toàn Ngành đã thực hiện là 14.337 người. Các đơn vị trong toàn Ngành kịp thời rà soát, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ công chức, viên chức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Việc sắp xếp, bố trí cán bộ theo hướng tăng cường cán bộ cho các VKSND cấp cao và những đơn vị nghiệp vụ chuyên ngành kiểm sát của VKSND các cấp; giảm cán bộ ở những đơn vị làm nhiệm vụ chuyên môn chung, làm công việc hỗ trợ, phục vụ. Đồng thời, thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành các quyết định để giảm 1.561 biên chế (chiếm 10% tổng biên chế toàn ngành Kiểm sát nhân dân).

2. Một số khó khăn, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tổ chức bộ máy, cán bộ của ngành Kiểm sát nhân dân còn một số khó khăn, vướng mắc sau:

Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao chỉ thành lập ở VKSND tối cao, không tổ chức ở VKSND cấp tỉnh, huyện, trong khi tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp chiếm tới 90% tin báo, tố giác về tội phạm và đối tượng phạm tội xảy ra ở địa phương. Trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao rất nặng nề, áp lực lớn, tuy nhiên, đến nay chưa được bổ sung thêm biên chế để thực hiện nhiệm vụ mới mà giảm còn 164 người; do đó, đặt ra yêu cầu tăng cả về số lượng, chất lượng Điều tra viên của ngành Kiểm sát trong thời gian tới.

Việc tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ-TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị cũng đặt ra thách thức rất lớn cho Ngành, bởi theo các quy định mới của các đạo luật về tư pháp, VKSND các cấp được giao nhiều nhiệm vụ mới, đối tượng và phạm vi kiểm sát rộng hơn so với trước đây. Những năm qua, tình hình tội phạm có diễn biến phức tạp, các tranh chấp dân sự, hành chính ngày càng nhiều kéo theo khối lượng công việc tăng nhanh ở các cấp kiểm sát, nhất là ở VKSND cấp huyện. Bên cạnh đó, số lượng, cơ cấu chức danh Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên giao cho VKSND các cấp theo các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến nay không còn phù hợp với khối lượng, tính chất các vụ, việc thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của VKSND các cấp theo quy định mới của luật... Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành, VKSND cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện hoạt động kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an.

Ngành Kiểm sát phải nâng cao định mức công việc cho tất cả các công chức, nhất là đối với các chức danh tư pháp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đang phải chịu áp lực rất lớn trong thực thi nhiệm vụ, nếu để xảy ra sai sót, vi phạm thì bị xử lý theo Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về xử lý kỷ luật Đảng viên vi phạm; Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và có thể bị xử lý hình sự nếu xảy ra hậu quả nghiêm trọng trở lên, nên càng tạo áp lực đến tâm lý của Kiểm sát viên trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), nhiệm vụ của Viện kiểm sát tăng lên rất nhiều, xuyên suốt từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát phải tham gia nhiều hoạt động như: Đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và trực tiếp điều tra khi thấy cần thiết, nhất là các trường hợp có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật… Tuy nhiên, lực lượng Kiểm sát viên, Kiểm tra viên chưa tương xứng với lực lượng Điều tra viên, Cán bộ điều tra của ngành Công an, dẫn đến áp lực trong việc thực hiện tốt chủ trương “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” và nhiệm vụ chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm của Viện kiểm sát.

Một bất cập khác là về kinh phí hoạt động nghiệp vụ. Viện kiểm sát chỉ được cấp kinh phí như một đơn vị hoạt động hành chính, nên không phù hợp với tính chất là lực lượng trực tiếp đấu tranh với tội phạm. Bởi hoạt động của VKSND gắn với hoạt động của Cơ quan điều tra (bao gồm thực hiện nhiệm vụ kiểm sát hoạt động điều tra và trực tiếp tiến hành điều tra trước khi quyết định việc phê chuẩn và quyết định truy tố); đồng thời, trực tiếp điều tra 38 tội danh về hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp và tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Các chế độ, chính sách đãi ngộ cũng chưa phù hợp với khối lượng công việc mà Ngành đảm nhiệm; trụ sở làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị của VKSND các cấp còn hạn chế, thiếu thốn, lực lượng cán bộ chưa được đào tạo kiến thức mới và kỹ năng điều tra nên khi thực hiện các nhiệm vụ tăng thêm gặp không ít khó khăn, thách thức.

Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ quy định các trường hợp tinh giản biên chế còn cứng nhắc đã làm nảy sinh vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Ví dụ, đối với những người có chuyên môn nghiệp vụ hạn chế, hiệu quả công việc chưa cao, những người do tuổi cao, sức khoẻ yếu không thể đảm nhiệm tốt công việc có nguyện vọng hưởng chế độ nghỉ hưu trước tuổi nhưng lại không đúng đối tượng theo quy định nên không thể xem xét, giải quyết. Bên cạnh đó, có nơi việc rà soát, nhận xét đánh giá đối với công chức còn có biểu hiện tâm lý nể nang nên chưa thực hiện được việc tinh giản; việc hỗ trợ kinh phí khi thực hiện chính sách tinh giản biên chế chưa nhiều...

Ngoài ra, còn một số khó khăn khác như: Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là một cấp kiểm sát mới nhưng từ khi thành lập (năm 2015) đến nay chưa được bổ sung biên chế mới mà phải điều chỉnh biên chế từ các khâu, lĩnh vực và cấp kiểm sát khác để thực hiện nhiệm vụ; việc thành lập phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc VKSND tối cao là nhiệm vụ mới, tăng thêm cho Ngành, nhưng đội ngũ Giám định viên, nhất là Giám định viên chuyên ngành về âm thanh, kỹ thuật số và điện tử lại chỉ có ở các tổ chức giám định tư pháp công lập như Công an, Quân đội nên rất khó khăn khi tiếp nhận nguồn nhân sự Giám định viên kỹ thuật hình sự này để thực hiện chức năng, nhiệm vụ....

3. Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân giai đoạn 2021 - 2030

Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Ngành về chính trị, tư tưởng; với yêu cầu đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng và hoạt động của ngành Kiểm sát trên cơ sở nắm vững nguyên tắc Đảng trực tiếp và thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ; kết hợp chặt chẽ giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của Ban cán sự Đảng và Ủy ban kiểm sát với nguyên tắc tập trung thống nhất trong tổ chức, hoạt động của Viện trưởng VKSND tối cao. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cơ cấu đội ngũ công chức theo hướng chuyên sâu, tinh gọn đầu mối, không thành lập các tổ chức trung gian, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hệ thống VKSND phải được kiện toàn theo hướng tập trung, thống nhất theo ngành dọc, bảo đảm việc phối hợp và phát huy sức mạnh của cả hệ thống VKSND để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

Đồng thời, đổi mới công tác tổ chức bộ máy, cán bộ phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKSND, thực hiện công khai, dân chủ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị làm tổ chức cán bộ với đơn vị quản lý, sử dụng cán bộ. Phải xác định đây là việc trọng tâm, quan trọng, được thực hiện thường xuyên trong toàn Ngành; xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn cán bộ gắn với từng vị trí việc làm. Ngoài tiêu chí chung, đối với mỗi chức vụ, chức danh, vị trí việc làm đều phải có các tiêu chuẩn, tiêu chí, khung năng lực riêng. Cán bộ, công chức ở mỗi vị trí đều phải được xác định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng. Các khâu quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải căn cứ vào yêu cầu, nội dung của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh.

Ngoài ra, biên chế, số lượng, cơ cấu Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên phân bổ cho VKSND các cấp phải bảo đảm quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, các Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phù hợp với vị trí việc làm và đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND các cấp. Việc xác định, phân bổ biên chế gắn với thực hiện tinh giản và nâng cao chất lượng biên chế, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng công chức tuyển dụng mới, thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có bản lĩnh, có trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ; từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia ở các lĩnh vực.

Với những định hướng nêu trên, nhằm đổi mới tổ chức bộ máy, cán bộ VKSND giai đoạn 2022 - 2030, cần tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả những giải pháp sau:

- Tiếp tục củng cố, kiện toàn, xây dựng bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Kiểm sát viên, Điều tra viên của VKSND các cấp; chú trọng bố trí công việc phù hợp với năng lực, trình độ của từng Kiểm sát viên, Điều tra viên đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tiếp tục khẳng định thẩm quyền của người đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao trong việc quyết định tổ chức bộ máy và cán bộ toàn Ngành; quyết định biên chế cũng như việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, đề bạt, kỷ luật đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý và đối với cán bộ trong Ngành.

- Tăng cường vai trò chủ động, trách nhiệm của Viện trưởng VKSND các cấp và Thủ trưởng các đơn vị thuộc VKSND tối cao trong quản lý, chỉ đạo, điều hành. Có thể thấy, những thay đổi quan trọng về chức năng, nhiệm vụ của Ngành đòi hỏi thay đổi mạnh mẽ hơn trong quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao với các Viện kiểm sát cấp dưới. Vì vậy, cần làm tốt những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa các quy định của luật về tổ chức và hoạt động của VKSND để hoàn thiện các quy định, quy chế trong công tác tổ chức cán bộ về đánh giá, phân loại công chức, viên chức; quy hoạch, đào tạo, điều động, bổ nhiệm và kỷ luật công chức, viên chức, đảm bảo tính công khai, minh bạch, dân chủ trong công tác tổ chức cán bộ của VKSND.

Thứ hai, rà soát, điều chỉnh, bổ sung biên chế, số lượng, cơ cấu tỉ lệ các ngạch Kiểm sát viên, Điều tra viên và công chức, viên chức của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp; bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp kiểm sát theo quy định mới của các đạo luật về tư pháp trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, quyết định.

Thứ ba, định biên số lượng Kiểm sát viên, Kiểm tra viên các ngạch cho VKSND tối cao, VKSND cấp cao và VKSND địa phương để chủ động nguồn dự thi, bổ nhiệm các chức danh tư pháp; rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên; sắp xếp, điều động Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác để bố trí tập trung cho lĩnh vực công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Tiếp tục rà soát, điều chuyển công chức có chức danh tư pháp từ lĩnh vực hành chính, phục vụ tăng cường cho lĩnh vực công tác nghiệp vụ; kiện toàn, tăng cường năng lực đội ngũ Điều tra viên các cấp của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.

Thứ tư, nâng cao chất lượng tuyển dụng cán bộ cho Ngành qua việc tuyển dụng cán bộ gắn với công tác đào tạo cử nhân Luật, chuyên ngành Kiểm sát của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, bởi đây chính là nguồn tuyển dụng có chất lượng, vừa có kiến thức luật vừa có kỹ năng, nghiệp vụ chuyên ngành kiểm sát. Chú ý việc tuyển dụng công chức theo Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ.

Thứ năm, Viện kiểm sát các cấp cần chú ý tăng cường thực hiện việc điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ, Kiểm sát viên ở đơn vị ít việc, vùng sâu, vùng xa về các Viện kiểm sát ở đồng bằng, thành phố có khối lượng việc nhiều hơn nhằm đào tạo, bồi dưỡng; mạnh dạn giao việc cho Kiểm sát viên trẻ trong nguồn quy hoạch cấp huyện để đào tạo, thử thách và khi bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý được vững vàng. Đồng thời, thực hiện việc luân chuyển, chuyển đổi cán bộ lãnh đạo đã quá nhiệm kỳ ở một vị trí công tác nhằm nâng cao tính sáng tạo, tránh tình trạng trì trệ...

Thứ sáu, thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 và các hướng dẫn của VKSND tối cao, tiếp tục tổ chức thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh tư pháp với tinh thần cạnh tranh công bằng, khách quan và minh bạch, tạo cơ sở để bổ nhiệm đúng, trúng. Nghiên cứu, tổ chức sát hạch đối với các chức danh tư pháp, nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu thì tiếp tục thực hiện nhiệm vụ; nếu cán bộ còn yếu thì đào tạo tiếp, sắp xếp công việc phù hợp.

Thứ bảy, đổi mới, thực hiện hiệu quả công tác đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, nâng cao trách nhiệm công vụ, kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; kiên quyết đưa ra khỏi Ngành những cán bộ, công chức không đủ tư cách, phẩm chất đạo đức; xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, có trình độ, năng lực thực tiễn và kinh nghiệm công tác.

Chú trọng tổ chức kiểm tra kiến thức chuyên môn, năng lực nghiệp vụ, đánh giá chất lượng của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên và công chức khác trong toàn Ngành để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp lại; kiên quyết giảm số công chức hạn chế, yếu kém. Cử Kiểm sát viên, Điều tra viên có năng lực, kinh nghiệm hướng dẫn người mới được bổ nhiệm, tuyển dụng.

Thứ tám, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; cải tiến lề lối, phương pháp làm việc và đầu tư mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, giảm bớt sự tham gia của nhân lực làm việc trực tiếp để có điều kiện chấp hành tốt hơn công tác quản lý biên chế trong thời gian tới.

Thứ chín, trong thời gian tới, cần xây dựng cơ cấu, tỉ lệ các chức danh tư pháp theo hướng tăng tỉ lệ các chức danh tư pháp trên tổng số biên chế; bố trí Kiểm sát viên, Kiểm tra viên các ngạch phù hợp với số lượng biên chế và đặc thù của từng cấp VKSND, đảm bảo phát huy tốt nhất vị trí, vai trò của các chức danh tư pháp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Để thực hiện các giải pháp trên, trước hết, Đề án vị trí việc làm của ngành Kiểm sát nhân dân phải được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt. Trên cơ sở đó, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ theo vị trí việc làm, xây dựng cơ cấu, tỉ lệ các chức danh tư pháp. Xây dựng đề án tổ chức bộ máy và biên chế trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định tổng biên chế của toàn ngành Kiểm sát. Đồng thời, đề xuất số lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên cho từng cấp Viện kiểm sát cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu công tác của từng địa phương, đơn vị.

Trong thời gian tới, VKSND tối cao chỉ đạo các đơn vị sự nghiệp công lập trong Ngành xây dựng đề án để phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cùng với việc đảm bảo phân cấp, giao quyền mạnh hơn. Đồng thời, thực hiện nghiêm việc chuyển đổi công chức sang viên chức theo quy định của Luật viên chức.

4. Một số đề xuất, kiến nghị

Một là, trong tiến trình đổi mới và cải cách tư pháp, các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước luôn khẳng định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND là hệ thống cơ quan độc lập, tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Từ thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND thời gian qua, cần khẳng định VKSND là một thiết chế đảm bảo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; với địa vị pháp lý, tên gọi: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tư pháp, thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.

Hai là, cần nghiên cứu, sửa đổi các luật liên quan nhằm giao lại cho VKSND cấp tỉnh nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ, việc thuộc thẩm quyền như trước; đồng thời, kiến nghị giao Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự cấp dưới; Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự cấp dưới. Bởi sau khi VKSND cấp cao thành lập, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của VKSND cấp tỉnh và nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm của VKSND tối cao được chuyển cho VKSND cấp cao thực hiện. Tuy nhiên, với khối lượng công việc lớn và áp lực tinh giản biên chế thì VKSND cấp cao khó có thể giải quyết hết và đạt hiệu suất cao.

Ba là, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của các đạo luật mới về tư pháp, đáp ứng yêu cầu của Đảng, Quốc hội, VKSND đứng trước nhiều khó khăn, thách thức về nguồn nhân lực; ngành Kiểm sát nhân dân phải tinh giản ít nhất 10% trên tổng số biên chế hiện có (tương đương 1.586 người) theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị. Do đó, kiến nghị sau khi tinh giản biên chế, ngành Kiểm sát nhân dân được sử dụng số biên chế đã tinh giản để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Bốn là, đối với cán bộ cấp chiến lược của Ngành và người đứng đầu VKSND cấp tỉnh, đề nghị có chủ trương luân chuyển sang công tác ở các bộ, ngành địa phương để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện, tạo môi trường mới cho cán bộ phát triển.

Năm là, để bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực hoạt động tư pháp, tạo điều kiện cho ngành Kiểm sát thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo các đạo luật mới, kiến nghị có chủ trương cơ cấu người đứng đầu VKSND tham gia cấp ủy đảng các cấp tương đồng với ngành Công an, Tòa án, bảo đảm vị thế chính trị để thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với lịch sử của Ngành (người đứng đầu ngành Kiểm sát nhân dân từng cơ cấu vị trí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư).

Sáu là, cần điều chỉnh chế độ cấp kinh phí cho ngành Kiểm sát từ kinh phí hành chính sang kinh phí đặc thù phù hợp với tính chất hoạt động và chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Theo đó, kinh phí chi cho hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra cần thực hiện như kinh phí chi cho hoạt động điều tra của ngành Công an, Quân đội; và Cơ quan điều tra VKSND cần được cấp kinh phí hoạt động, đầu tư trang thiết bị như của Cơ quan điều tra Bộ Công an.

Bảy là, trước đây VKSND có chức năng kiểm sát chung, trong đó có hoạt động chuyên sâu về kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thực tiễn cho thấy vi phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật và tội phạm, gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Do đó, cần xây dựng cơ chế và giao cho một cơ quan có thẩm quyền giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và sự thống nhất của các văn bản đó, đồng thời, có cơ chế xử lý nghiêm đối với việc ban hành văn bản vi phạm Hiến pháp, pháp luật, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân./.

Tăng Ngọc Tuấn