Tăng cường vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền tư pháp
Ngày đăng : 08:00, 29/06/2022
1. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước
1.1. Vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Lịch sử ra đời và phát triển của chế định Viện kiểm sát ở nước ta và nhìn rộng ra thế giới, đặc điểm của chế định Viện kiểm sát và các thiết chế tương tự là Viện công tố ở nhiều quốc gia đều cho thấy đây là một chế định rất đặc thù.
Theo dõi sự thay đổi phạm vi các chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) ở nước ta trong toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của thiết chế này cho thấy, chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bao gồm kiểm sát chung trước đây và kiểm sát các hoạt động tư pháp hiện nay, là hai chức năng luôn thuộc về VKSND. Từ năm 2001, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (thường được gọi là kiểm sát chung) không còn nữa. Thực chất, kiểm sát hoạt động tư pháp chính là kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhưng chỉ đối với hoạt động tư pháp. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ ra rằng, Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp. Việc điều chỉnh chức năng của VKSND trong Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND đã không làm thay đổi hai hướng hoạt động chủ đạo của VKSND là công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, mà chỉ thu hẹp phạm vi của chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, tập trung chức năng này vào lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Xét theo chức năng và nhiệm vụ, VKSND trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước Việt Nam là một thiết chế có vị trí và vị thế độc lập và đặc biệt, bởi trước hết, các chức năng và nhiệm vụ hiến định và luật định này không thuộc về bất kỳ một cơ quan nào khác trong bộ ba cấu trúc quyền lực nhà nước: Lập pháp - hành pháp - tư pháp. Với các chức năng, nhiệm vụ không chủ thể nào thay thế được đó, VKSND đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung và kiểm soát quyền lực tư pháp nói riêng. Để thấy rõ hơn vai trò của VKSND, trước hết cần làm rõ các đặc trưng của hoạt động kiểm soát quyền lực của VKSND trong hệ thống các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.
1.2. Các đặc trưng hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân
Đặc trưng thứ nhất: Hoạt động kiểm soát quyền lực của VKSND là một hình thức giám sát quyền lực mà giữa chủ thể thực hiện việc giám sát và đối tượng chịu sự giám sát không có mối liên hệ phụ thuộc về mặt tổ chức. Nói cách khác, đây là sự giám sát từ bên ngoài đối với đối tượng bị giám sát.
Đặc điểm này cho thấy hai vấn đề: (1) Nếu hoạt động thanh tra, kiểm tra được thực hiện trong phạm vi hệ thống tổ chức của mình, thì hoạt động kiểm sát của VKSND là sự giám sát từ bên ngoài hệ thống của đối tượng bị kiểm sát, tức là đối tượng thuộc hệ thống cơ quan, tổ chức khác; (2) Hoạt động kiểm sát của VKSND là một hình thức của hoạt động giám sát quyền lực, tính chất của hoạt động này là xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp (Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014), tức là không nhằm vào việc đánh giá tính chất khác trong hành vi của đối tượng kiểm tra (như mức độ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn). Trong khi đó, hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước được thực hiện nhiều mặt, bởi đây là một bộ phận hợp thành của hoạt động quản lý, điều hành.
Đặc trưng thứ hai: Với tư cách là chủ thể thực hiện việc giám sát quyền lực, VKSND là một hệ thống tổ chức tập trung thống nhất. Theo đó, Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên, Viện trưởng các VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao (Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 2014). Cách thức tổ chức, hoạt động thống nhất và tập trung đó ngoài việc tạo ra sự nhanh chóng, kịp thời trong xử lý tình huống thì còn bảo đảm sự độc lập, khách quan, đặc biệt là đối với sức ép và những sự tác động từ phía bộ, ngành và địa phương.
Đặc trưng thứ ba: Hoạt động kiểm soát quyền lực của VKSND là hoạt động được hiến định (Điều 107 Hiến pháp năm 2013). Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước trên cơ sở Hiến pháp và nhân danh quyền lực nhà nước. Vì thế, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND (Điều 9). Đối tượng chịu sự kiểm soát (từ phía VKSND) là các cơ quan tư pháp, thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp, trải dài trong hoạt động của quyền tư pháp. Tuy nhiên, đặc thù của sự kiểm soát quyền lực mà VKSND thực hiện về tính chất là việc sử dụng quyền lực, nhưng về phương thức, phạm vi lại được “tố tụng hóa” tuyệt đối, hoàn toàn nằm trong quá trình tố tụng (hình sự, hành chính, dân sự...). Điều đó cho thấy tính ưu việt của việc kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, bởi nó được đặt trên nền tảng của các thủ tục pháp lý chặt chẽ - một tố chất mang ý nghĩa quan trọng nhất trong việc sử dụng và thực thi quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền.
Có thể khẳng định rằng, chức năng và thẩm quyền trong kiểm soát quyền lực nhà nước của VKSND là độc lập, do một chủ thể kiểm soát quyền lực có vị trí độc lập, thống nhất, chuyên trách thực hiện. Địa vị pháp lý của VKSND ở Việt Nam luôn được đặt ở vị trí cao, ở tầm hiến định và đó chính là bảo đảm pháp lý cao nhất cho tính độc lập, năng lực và tính khách quan của kiểm soát, tính ràng buộc cao cho kết quả và kết luận kiểm sát.
Đặc trưng thứ tư: Kiểm soát quyền lực của VKSND là hoạt động mang tính chuyên biệt. Tức là, các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung trước năm 2001, kiểm sát hoạt động tư pháp hiện nay) và thực hành quyền công tố là những hoạt động nằm trong chức năng, nhiệm vụ chính yếu của VKSND. Chức năng kiểm sát của VKSND là chức năng chủ yếu và là lý do tồn tại của VKSND. Tính chuyên biệt (specialization) của chủ thể kiểm soát quyền lực này làm cho nó không bị lẫn vào bất kỳ một nhánh quyền lực nào, cho dù đó là cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp.
2. Nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền tư pháp trong các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
2.1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất
Các nhiệm vụ hiến định và luật định của VKSND trước hết được thực hiện thông qua chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm soát quyền lực thông qua chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật. Kiểm soát quyền lực thông qua chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm tính hợp pháp (bao gồm cả tính hợp hiến và tính phù hợp với pháp luật) của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Nội dung hoạt động kiểm soát quyền lực của VKSND được đặt trọng tâm vào việc bảo đảm pháp chế (phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật) và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây cũng chính là tính đặc thù của thiết chế VKSND so với các thiết chế kiểm tra, giám sát quyền lực khác trong bộ máy nhà nước.
Một điều đáng chú ý khác là, từ năm 2001, mặc dù VKSND không tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ quan khác của Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang, các viên chức nhà nước và công dân trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhưng pháp luật vẫn coi trọng vai trò của VKSND đối với các phạm vi và đối tượng này. Bởi vì, trong quá trình đó, VKSND có khả năng không thể thay thế được, đó là thông qua các vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình phát hiện các vi phạm pháp luật, vi phạm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích của Nhà nước, cá nhân, tổ chức, đơn vị. Trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát không chỉ có quyền yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp, mà còn có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan (không phải là cơ quan tư pháp) áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Khi hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng (không thuộc trường hợp kháng nghị) và phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Các chủ thể trên có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND.
2.2. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; hoạt động điều tra; xét xử hình sự, dân sự, hành chính và thi hành án
Trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, VKSND là cơ quan có thẩm quyền duy nhất và trực tiếp tiếp nhận thông báo đầy đủ và kịp thời kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ phía Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong mọi trường hợp, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm thông báo đầy đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận cho VKSND.
Cũng như ở giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, hoạt động của VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự có hai mục đích rõ rệt: (i) Bảo đảm phát hiện, điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội (thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra); (ii) Phát hiện và khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động điều tra.
Có thể nói rằng, việc pháp luật quy định cho VKSND có thẩm quyền phê chuẩn các quyết định và yêu cầu đối với hành vi điều tra hình sự là một trong những phương thức quan trọng để giám sát hoạt động điều tra.
Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn xét xử có mục đích bảo đảm hoạt động của các chủ thể diễn ra trong giai đoạn này phù hợp và tuân theo pháp luật, bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án công bằng, đúng người, đúng tội. Nguyên tắc về việc xét xử trong phạm vi truy tố của Viện kiểm sát vừa thể hiện tính chủ động, vừa bảo đảm phân biệt rõ các chức năng tố tụng, thừa nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
Vai trò và phương thức thực hiện việc kiểm soát quyền lực tư pháp của VKSND trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm trước hết thể hiện ở việc sử dụng quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án (ở đây là kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định sơ thẩm đó). Hậu quả của việc kháng nghị là: Chưa được đưa ra thi hành những phần của bản án, quyết định bị kháng nghị, trừ những trường hợp phải thi hành ngay. Tương tự phiên tòa sơ thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm, sự có mặt của Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc để phát biểu quan điểm. Yêu cầu này của pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKSND.
Xét về tính chất các thẩm quyền tố tụng của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Viện kiểm sát có thẩm quyền quan trọng đối với hoạt động xét xử. Đó là thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để yêu cầu xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án (Điều 371 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021).
Nếu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là thẩm quyền của cả Tòa án và Viện kiểm sát thì thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ thuộc về Viện kiểm sát (Điều 400 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021).
Có thể khẳng định rằng, về bản chất quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm là thẩm quyền mang tính chất kiểm tra, giám sát mà bản chất là kiểm soát quyền lực đối với hoạt động xét xử, cụ thể là đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Có 04 trường hợp có sự tham gia và thể hiện vai trò của Viện kiểm sát, đó là: Tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ; tham gia vụ án mà đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở, hoặc vụ án có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Kiểm sát thi hành án hình sự có mục đích bảo đảm việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan Thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án hình sự. Ở lĩnh vực hoạt động này, các phương thức thực thi thẩm quyền của VKSND vẫn được quy định bao gồm yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự. Đối tượng kháng nghị là hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự. Đối tượng được Viện kiểm sát yêu cầu là Tòa án, các cơ quan Thi hành án hoặc cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án.
Đối với việc thi hành án dân sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với quyết định của Tòa án về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 64 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định chi tiết về thẩm quyền kháng nghị của VKSND đối với quyết định và hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động của các cơ quan tư pháp là lĩnh vực hết sức quan trọng, góp phần bảo đảm việc thực thi, tuân theo pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Lĩnh vực này bao gồm hai nội dung hoạt động: Tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Có thể thấy rằng, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định trong lĩnh vực tư pháp là chức năng quan trọng của VKSND cùng với hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, có ý nghĩa quan trọng đối với mục đích kiểm soát quyền lực tư pháp.
3. Quan điểm, định hướng và các giải pháp tăng cường vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước và quyền lực tư pháp
3.1. Quan điểm
Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) và các văn bản pháp luật khác đều quy định VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong quy trình tố tụng hình sự, VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất tham gia đầy đủ tất cả các giai đoạn tố tụng: Tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, Đảng đặt ra yêu cầu quan trọng là “bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”[2]. Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, trên tất cả các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ (như kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa; thực hành quyền công tố; kiểm sát các hoạt động tư pháp; điều tra tội phạm; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia xây dựng pháp luật; tương trợ tư pháp; thống kê tội phạm và các công tác khác), VKSND đã thực sự chứng minh được vai trò không thể thay thế được trong hệ thống bộ máy nhà nước và trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có quyền tư pháp. Chính vì vậy, quan điểm cần được khẳng định là tiếp tục đề cao vai trò, xác định đúng vị trí, chức năng và nhiệm vụ của VKSND trong các cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay và trong toàn bộ tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
3.2. Các định hướng tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm soát quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền tư pháp
Định hướng thứ nhất: Tăng cường hơn nữa tính độc lập của thiết chế VKSND trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước - bảo đảm quan trọng hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tính độc lập của VKSND với tính chất là một thiết chế trong bộ máy nhà nước được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật ở hai mức độ: Sự độc lập của thiết chế VKSND và sự độc lập của Kiểm sát viên.
Định hướng thứ hai: Tăng cường thêm một số chức năng, nhiệm vụ mới cho VKSND nhằm phát huy vai trò và hiệu lực kiểm soát quyền lợi nhà nước và kiểm soát quyền tư pháp của VKSND.
Trong tố tụng hình sự, cần tiếp tục khẳng định thẩm quyền điều tra độc lập của Viện kiểm sát đối với các loại tội phạm nhất định nhằm hỗ trợ và bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng công tố. Thực tế hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND thời gian qua đã hỗ trợ, góp phần tích cực bảo đảm thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, VKSND có phạm vi thẩm quyền chỉ điều tra đối với một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp là còn hạn hẹp, chưa bảo đảm hỗ trợ đầy đủ, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu thực hiện chức năng của VKSND. Tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc, Liên bang Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, tác giả đề xuất mở rộng phạm vi thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của VKSND, không chỉ đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà còn đối với một số vụ án khác có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, phạm vi ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị, trật tự xã hội như tội phạm tham nhũng, kinh tế có tổ chức với quy mô lớn, phức tạp...
Trong tố tụng dân sự, xét về thẩm quyền, theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không quy định các vụ việc dân sự được bắt đầu bởi quyền khởi kiện của Viện kiểm sát. Do đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần bổ sung nội dung: Bên cạnh các cơ quan quản lý chuyên ngành, các tổ chức xã hội, cần giao VKSND thẩm quyền khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là Nhà nước (lợi ích công), các nhóm dễ bị tổn thương (yếu thế) không có điều kiện tham gia tố tụng.
3.3. Các giải pháp
- Tiếp tục khẳng định và hoàn chỉnh hệ thống các chức năng, nhiệm vụ của VKSND, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, tăng cường trách nhiệm của cán bộ, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Một trong những ưu thế của VKSND đối với việc thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung và kiểm soát quyền lực tư pháp nói riêng là tính thống nhất, tập trung trong tổ chức, vì tính chất đó tạo ra khả năng độc lập, khách quan trong quá trình thực thi vai trò, chức năng và nhiệm vụ của VKSND. Cần nhận thức rõ rằng, nguyên tắc tập trung thống nhất và nguyên tắc trách nhiệm của từng Kiểm sát viên đối với quyết định của mình trong quá trình thực thi nhiệm vụ là hai mặt thống nhất, không loại trừ mà bổ sung cho nhau. Tương tự, vấn đề về sự thống nhất vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng Viện kiểm sát và Ủy ban Kiểm sát cũng là hai yếu tố bổ sung cho nhau và thống nhất với nhau theo đúng tinh thần Viện trưởng Viện kiểm sát chịu trách nhiệm và có quyền quyết định sau cùng (các khoản 3, 4 Điều 43 và 4, 5 Điều 44 Luật tổ chức VKSND năm 2014).
- Củng cố và hoàn thiện mối quan hệ phối hợp giữa VKSND với các cấp ủy đảng, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng.
Mặc dù được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, nhưng trong toàn bộ quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, VKSND các cấp đều đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng và phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương. Cần khẳng định rằng, trong công cuộc bảo vệ pháp luật và pháp chế, các cơ quan pháp luật, các cơ quan tư pháp phải giữ vai trò nòng cốt. Hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật gồm có: Tòa án, Công an, Viện kiểm sát, Kiểm lâm, Biên phòng, Hải quan. Mỗi cơ quan, ngành đều có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ riêng và trên thực tế đã chủ động tích cực hoàn thành nhiệm vụ được giao; đã có sự phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, Hiến pháp, pháp luật chưa có quy định về vai trò chủ trì phối hợp, trước hết là trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Xuất phát từ tình hình đó, trên cơ sở đánh giá vị trí độc lập, chức năng chuyên về bảo vệ pháp luật, VKSND xứng đáng và cần thiết được giao thực hiện vai trò đó.
Ở nhiều nước có cùng mô hình Viện kiểm sát như ở nước ta thì Viện kiểm sát được giao chức năng chủ trì phối hợp đấu tranh chống tội phạm (Liên bang Nga), chủ trì phối hợp đấu tranh chống tham nhũng (Trung Quốc, Belarus). Ở nước ta, như nhận định của các cơ quan có thẩm quyền cho thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực còn gặp nhiều khó khăn, chưa đủ cơ chế cần thiết để giám sát có hiệu lực, hiệu quả; thiếu quy định cụ thể bảo vệ người tố cáo tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm các hành vi đe dọa, trả thù người tố cáo. Tình hình đó đã đặt ra vấn đề về tăng cường phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, giúp Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng các cấp triển khai các kế hoạch theo dõi, chỉ đạo công tác này. Các chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó có phòng, chống các tội phạm tham nhũng thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; qua công tác thống kê tội phạm cho thấy, VKSND là cơ quan có chức năng chuyên biệt, đồng thời cũng là cơ quan có chức năng giám sát từ bên ngoài đối với các cơ quan khác, cùng với đó là tính thống nhất tập trung lãnh đạo trong Ngành. Với ba yếu tố làm nên đặc điểm của VKSND so với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, việc giao vai trò phối hợp, kiểm tra giám sát hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm là hoàn toàn phù hợp, giúp tăng cường hiệu lực và hiệu quả của công tác quan trọng đó.
- Phân biệt rõ phạm vi chức năng công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng.
Khẳng định sự cần thiết tăng cường chức năng công tố là khẳng định yêu cầu làm rõ vai trò chủ động của VKSND đối với toàn bộ hoạt động điều tra, phát hiện tội phạm, truy tố người phạm tội và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án. Trước yêu cầu đó, chức năng công tố của VKSND mang một ý nghĩa kiểm soát và tự kiểm soát đặc biệt. Kiểm soát bao hàm trong đó quyền theo dõi, quyết định định hướng điều tra, truy tố, phối hợp hoạt động ở mức cao để bảo đảm chất lượng và kết quả điều tra tội phạm; tự kiểm soát bao hàm thẩm quyền xác định mức độ và phạm vi truy tố, tự chịu trách nhiệm về quan điểm truy tố, huy động, kết nối mọi kết quả của toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố để hình thành quan điểm, nội dung, phương hướng tiến hành hoạt động buộc tội trước Tòa. Nói cách khác, chức năng công tố của VKSND cần được hiểu trong một phạm vi rộng của khái niệm quyền công tố./.