Kinh nghiệm từ công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự

Ngày đăng : 08:00, 02/06/2022

(Kiemsat.vn) - Kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự là công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án kịp thời, đúng pháp luật. Đây được xem là khâu công tác khó từ việc đánh giá chứng cứ đến áp dụng pháp luật. Những năm qua, lãnh đạo và công chức toàn ngành đã có nhiều cách làm hay, những kinh nghiệm quý để thực hiện hiệu quả khâu công tác này.

Trong những năm qua, mặc dù thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, số công chức làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự bị cắt giảm; một số quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự chưa rõ ràng, cụ thể… nhưng Viện kiểm sát các cấp đã chọn các khâu đột phá, đề ra các biện pháp về quản lý, chỉ đạo điều hành và chuyên môn nghiệp vụ. Nhờ đó, chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự đã được nâng lên, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho ngành Kiểm sát. Sau đây là những kinh nghiệm từ thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự:

1. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành

Đề cao vai trò của người đứng đầu: Có thể nói, trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, người đứng đầu có vai trò rất quan trọng đối với tiến độ, chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 22/3/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (đã thay thế bằng Chị thị số 07/CT-VKSTC ngày 06/8/2021) yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp phải trực tiếp phụ trách và chịu trách nhiệm về công tác này. Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp trực tiếp nghe báo cáo và cho ý kiến về việc giải quyết vụ, việc; quyết định việc kháng nghị. Người đứng đầu quan tâm chỉ đạo kịp thời; lãnh đạo đơn vị quán triệt nghiêm các chỉ thị, hướng dẫn của ngành tới công chức trong đơn vị. Thực tiễn cho thấy, khi Viện trưởng trực tiếp phụ trách công tác này, chất lượng công tác được nâng lên; mối quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan khác ngày một thuận lợi, các khó khăn dần được tháo gỡ; nâng cao uy tín của Viện kiểm sát của đối với cấp ủy địa phương.

Về bố trí cán bộ: Cần bố trí cán bộ, Kiểm sát viên phù hợp, đảm bảo tính ổn định, là những người tâm huyết, tận tụy, trách nhiệm và có kiến thức chuyên sâu. Việc bố trí cán bộ phải đảm bảo tính kế thừa và ổn định, có những người có kinh nghiệm truyền nghề, truyền lửa cho những người trẻ nhiệt huyết. Bên cạnh đó, thực hiện khen thưởng kịp thời và quan tâm đến việc thi Kiểm sát viên cũng như quy hoạch chức vụ quản lý đối với công chức làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Về công tác đào tạo: Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp phải chủ động bố trí công việc để công chức được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức mới, chuyên sâu về nghiệp vụ; chú trọng tự đào tạo, coi đây là hình thức đào tạo nhanh nhất, hiệu quả nhất (qua các phiên tòa rút kinh nghiệm, từng vụ án cụ thể, Kiểm tra viên tham dự phiên tòa cùng Kiểm sát viên, phân công các Kiểm sát viên nhiều kinh nghiệm phụ trách những người mới...)

Phương thức quản lý, lãnh đạo: Trên cơ sở kết quả công tác của năm trước, tập hợp những vấn đề vướng mắc, hoặc cần bổ sung để hướng dẫn chương trình công tác cho năm sau; tổ chức hội nghị tập huấn hoặc bồi dưỡng theo chuyên đề chuyên sâu đảm bảo thiết thực, hiệu quả. Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên ở những đơn vị làm tốt để nêu gương và những đơn vị làm chưa tốt để rút kinh nghiệm.

Lãnh đạo Viện có thể thành lập các tổ tham mưu để giải quyết các vụ việc khó, phức tạp, không thu thập được đầy đủ chứng cứ, dư luận xã hội quan tâm, các vụ việc khiếu kiện kéo dài... trong đó, tổ trưởng là lãnh đạo phòng (cấp tỉnh), là lãnh đạo Viện (cấp huyện). Các thành viên trong tổ nghiên cứu, thảo luận để đề xuất quan điểm giải quyết vụ việc. Quy trình nghiên cứu báo cáo, đề xuất hướng giải quyết phải phát huy tối đa trí tuệ tập thể.

Quan hệ phối hợp với Tòa án và các cơ quan khác: Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định khá rõ ràng về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, nhưng trong quá trình thực thi vẫn còn một số khó khăn vướng mắc; vì vậy, cần chủ động ký Quy chế phối hợp với Tòa án và các cơ quan khác để tháo gỡ vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Thực tiễn cho thấy Viện kiểm sát nào ký Quy chế phối hợp thì quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ thuận lợi và chất lượng công tác tốt hơn. Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Thẩm phán kiểm sát việc giải quyết từ khi Tòa án thụ lý vụ việc; tham gia xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản (khi Kiểm sát viên được tham gia xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản thì việc đề xuất quan điểm giải quyết vụ án, nhất là các vụ liên quan đến quyền sử dụng đất sẽ đảm bảo tính chính xác, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự).

Bên cạnh đó, mỗi công chức phải tích cực, chủ động học hỏi để nâng cao trình độ; nắm vững các quy định của pháp luật, các văn bản giải đáp vướng mắc của VKSND tối cao và Tòa án nhân dân tối cao; thường xuyên cập nhật các thông báo rút kinh nghiệm. Kiểm tra viên tích cực tham dự các phiên tòa cùng với Kiểm sát viên vì phiên tòa là nơi học hỏi, thực hành về kiến thức và rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp tốt nhất.

2. Về thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị

Khi thực hiện quyền yêu cầu, thông thường Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án, vụ việc, yêu cầu Tòa án xác minh thu thập chứng cứ, yêu cầu cho sao chụp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, tài liệu chứng cứ khi kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện…; yêu cầu các cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ… Khi Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ mà Tòa án không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2016-TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa VKSND và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, tại phiên tòa, phiên họp Kiểm sát viên yêu cầu Hội đồng xét xử, Thẩm phán tạm ngừng phiên tòa để thu thập chứng cứ, nếu Hội đồng xét xử (HĐXX), Thẩm phán không chấp nhận thì sau phiên tòa Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện thực hiện quyền kiến nghị hoặc kháng nghị tùy theo tính chất của vi phạm.

Khi Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan, tổ chức đó không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ dẫn đến Viện kiểm sát không tập hợp được để kiến nghị; nếu sau khi kiến nghị vẫn chưa khắc phục được thì tiếp tục báo cáo Hội đồng nhân nhân để có chỉ đạo kịp thời.

Việc ban hành kiến nghị phải có căn cứ và chỉ ra được vi phạm chính xác, cụ thể, có viện dẫn điều luật rõ ràng; kiến nghị được thực hiện một cách linh hoạt, đảm bảo tính kịp thời. Có thể kiến nghị vụ việc đối với vi phạm ít nghiêm trọng hoặc tập hợp kiến nghị chung nhóm vi phạm như: Vi phạm về thời hạn, về thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát, vi phạm về chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, vi phạm về trình tự, thủ tục giải quyết sau khi hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, vi phạm về trích dẫn điều luật không chính xác…

Ngoài ra, cần chú trọng kiến nghị phòng ngừa đối với công tác quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực, đặc biệt là trong công tác lưu trữ hồ sơ địa chính, hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự phối hợp của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát.

3. Về nghiên cứu hồ sơ

Việc nghiên cứu hồ sơ là khâu then chốt để Kiểm sát viên đề xuất quan điểm giải quyết vụ việc dân sự và phát biểu quan điểm tại phiên tòa, phiên họp. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có quy định cụ thể về việc nghiên cứu hồ sơ đối với vụ án ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm; tuy nhiên, nghiên cứu hồ sơ ở mỗi quan hệ tranh chấp cũng có những điểm cần lưu ý:

Đối với các vụ án tranh chấp về nhà đất: Cần chú ý đến các chứng cứ chứng minh cho quyền sở hữu, sử dụng của mỗi bên (các giấy tờ về nguồn gốc đất, các giao dịch về việc hình thành quyền sở hữu, quyền sử dụng: Hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng, thế chấp; chuyển đổi hoặc thừa kế, giấy tờ về việc giao đất, phân đất, nhà đất có thuộc đối tượng thực hiện các chính sách không...; xác nhận của Ủy ban nhân dân về quá trình sử dụng đất; giấy tờ chứng minh việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; lời khai của các nhân chứng là những người sống lâu năm cạnh đất tranh chấp). Đặc biệt, cần chú ý đến các chính sách đất đai của Nhà nước qua các thời kỳ.

Đối với các vụ án tranh chấp về hợp đồng: Cần chú ý đến hợp đồng, nhất là nội dung hợp đồng để xem xét thỏa thuận của các bên trong hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật không; các chứng cứ chứng minh việc thực hiện quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng. Yêu cầu của các bên trong vụ án là hủy hay công nhận hợp đồng; nếu hủy hợp đồng các bên có yêu cầu giải quyết hậu quả không; bên nhận chuyển nhượng có phải là người thứ ba ngay tình không...

Đối với các vụ án tranh chấp về thừa kế: Cần chú ý thời điểm mở thừa kế; di sản thừa kế; hàng thừa kế; các bên có yêu cầu áp dụng về thời hiệu không; thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật; nếu có di chúc thì di chúc có hợp pháp không; di sản thừa kế mà các bên để lại gồm những tài sản gì, tài sản nào chia được bằng hiện vật, tài sản nào không chia được bằng hiện vật; nghĩa vụ mà người để lại di sản thừa kế phải thực hiện...

Đối với các vụ án về hôn nhân gia đình: Cần xác định thời điểm các bên xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp; các bên yêu cầu ly hôn hay không công nhận là vợ chồng, hủy hôn nhân trái pháp luật… Về tài sản, cần phải xem nguồn gốc hình thành tài sản; tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, các bên có thỏa thuận tài sản riêng thành tài sản chung không; nợ chung của các bên; tài sản nào chia được và không chia được bằng hiện vật; đặc biệt, cần lưu ý bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.

4. Về tham gia và phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp

Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu quan điểm giải quyết vụ việc là kết quả hoạt động của Kiểm sát viên từ kiểm sát thụ lý vụ án đến khi báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có nhiều hoạt động: Tham gia hỏi, yêu cầu Hội đồng xét xử công bố tài liệu, chứng cứ, thể hiện quan điểm về các vấn đề phát sinh tại phiên tòa khi Hội đồng xét xử yêu cầu và cuối cùng là phát biểu quan điểm.

Đối với việc hỏi, Kiểm sát viên chỉ hỏi những câu mà Hội đồng xét xử (HĐXX), Thẩm phán chưa hỏi khi thấy cần thiết để làm sáng tỏ những nội dung chưa rõ, câu hỏi liên quan để bảo vệ kháng nghị hay các chứng cứ đương sự cung cấp hoặc lời khai có mâu thuẫn với nhau; kết hợp với các chứng cứ khác làm cơ sở phát biểu về quan điểm giải quyết vụ việc. Các câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ trả lời; tránh những câu hỏi mà đương sự không trả lời được.

Đối với phát biểu của Kiểm sát viên, trên cơ sở dự thảo phát biểu đã được chuẩn bị trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ kết hợp với chứng cứ mới được bổ sung tại phiên tòa, phiên họp và trình bày của đương sự tại phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên phát biểu với hai nội dung: Việc tuân theo pháp luật tố tụng và đường lối giải quyết vụ việc. Đồng thời, phải lưu ý đến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa để thực hiện quyền yêu cầu hoặc phát biểu tại phiên tòa như sau:

Thứ nhất, về việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án: Đối với những vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hủy, giao cho Tòa án cấp huyện xét xử sơ thẩm lại; khi Tòa án cấp huyện thụ lý thì xuất hiện các tình tiết như đương sự yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có yếu tố nước ngoài thì thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Thứ hai, về sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Nếu người tham gia tố tụng vắng mặt, cần xem xét lý do vắng mặt và việc Tòa án vẫn xét xử trong trường hợp này có đúng không. Trường hợp đương sự đã được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt với lý do bị ốm hay tai nạn giao thông thì Tòa án hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền lợi cho đương sự; đối với trường hợp đương sự có việc hiếu thì cần cân nhắc để hoãn phiên tòa. Cá biệt có trường hợp tại phiên tòa đương sự gặp vấn đề về sức khỏe mà không thể tiếp tục tham gia thì phải tạm ngừng phiên tòa. Khi phiên tòa được mở lại, cần kiểm sát về thời hạn hoãn, tạm ngừng phiên tòa.

Đối với người được ủy quyền thì việc ủy quyền phải hợp pháp và cần xem kỹ phạm vi ủy quyền là trong cả quá trình hay chỉ trong từng giai đoạn tố tụng. Đối với những người đang trong quá trình tố tụng mà chết thì phải đưa người thừa kế của họ vào tham gia tố tụng; không đưa chi nhánh hay văn phòng đại diện vào tham gia tố tụng vì không có tư cách pháp nhân.

Thứ ba, đối với những vụ việc Tòa án chưa thu thập hoặc không thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát mà việc không thu thập chứng cứ đó dẫn đến việc giải quyết vụ việc không khách quan thì Kiểm sát viên tiếp tục yêu cầu HĐXX cho tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập chứng cứ. Nếu yêu cầu của Viện kiểm sát không được HĐXX chấp nhận thì Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên tòa và chỉ phát biểu về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng từ khi Tòa án thụ lý đến trước thời điểm HĐXX nghị án và về việc yêu tạm ngừng phiên tòa để thu thập thêm tài liệu, chứng cứ không được thực hiện, mà không phát biểu về đường lối giải quyết vụ án. Nếu Tòa án tạm ngừng phiên tòa theo yêu cầu của Kiểm sát viên thì Kiểm sát viên theo dõi việc thực hiện và thông báo kết quả thực hiện yêu cầu của Tòa án. Nếu Tòa án không thể thực hiện được yêu cầu mà trước ngày tiếp tục xét xử không thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên phát biểu nội dung này tại phiên tòa; sau phiên tòa tổng hợp báo cáo lãnh đạo Viện để ban hành kiến nghị chung.

Thứ tư, đối với những vụ án cần phải tạm đình chỉ để đợi kết quả giải quyết vụ án khác, kết quả ủy thác tư pháp, kết quả giám định… mà Kiểm sát viên đã đề nghị tạm đình chỉ nhưng Tòa án không chấp nhận thì Kiểm sát viên phát biểu về giải quyết vụ án trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Nếu chứng cứ trong vụ án không đủ do chưa có kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan, chưa có kết quả giám định bổ sung, giám định lại, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, chứng cứ do các cơ quan, tổ chức cung cấp... dẫn đến chưa đủ căn cứ để đưa ra quan điểm giải quyết vụ án thì Kiểm sát viên phát biểu về việc yêu cầu của Viện kiểm sát không được thực hiện nên chưa đủ cơ sở để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Thứ năm, đối với vụ án có các căn cứ phải đình chỉ, nếu Kiểm sát viên đề nghị HĐXX đình chỉ giải quyết vụ án nhưng HĐXX không chấp nhận thì Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, phân tích, nhận định các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án và đề nghị HĐXX đình chỉ giải quyết vụ án, phát biểu về quyền khởi kiện lại của người khởi kiện. Nếu sau khi nghị án, HĐXX không đình chỉ giải quyết vụ án thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện thực hiện quyền kháng nghị theo quy định.

Thứ sáu, đối với vụ án mà đương sự thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, rút kháng cáo tại phiên tòa, Kiểm sát viên cần xem xét phạm vi của việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, rút kháng cáo; nếu đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc kháng cáo thì cần lưu ý đến việc thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự, ý kiến của các đương sự khác.    

Thứ bảy, đối với các chứng cứ mới phát sinh tại phiên tòa thì Kiểm sát viên căn cứ vào các chứng cứ đó và các chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án để phát biểu quan điểm giải quyết vụ án (có thể thay đổi một hoặc một số nội dung đã được lãnh đạo Viện duyệt). Nếu phát sinh chứng cứ mới mà cần phải thu thập thêm chứng cứ khác mới đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án tạm ngừng phiên tòa để các bên cung cấp thêm hoặc Tòa án, Viện kiểm sát xác minh, thu thập chứng cứ bảo vệ kháng nghị.

5. Về kiểm sát bản án, quyết định

Đối với vụ án mà Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, khi kiểm sát bản án, quyết định phải đối chiếu, so sánh phần nội dung vụ án, nhận định của bản án có phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa hay không; đồng thời, đối chiếu với bút kí phiên tòa. Việc phân tích, đánh giá chứng cứ, nhận định trong bản án có đủ căn cứ để HĐXX quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của đương sự; quyết định của bản án có vượt quá phạm vi khởi kiện, kháng cáo của đương sự không.

Đối với những vụ án áp dụng án lệ để giải quyết, cần xem xét các tình huống trong vụ án có tương tự với các tình huống của án lệ không? Nếu quan điểm của Tòa án và Viện kiểm sát khác nhau thì sau phiên tòa báo cáo lãnh đạo Viện; khi có bản án, quyết định thực hiện quyền kháng nghị hoặc thông báo cho Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét kháng nghị giám đốc thẩm. Đối với vụ án mà Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa cần nghiên cứu kỹ bản án, quyết định cả về tố tụng và nội dung, đặc biệt là phần nhận định để xem xét quyết định có phù hợp với nhận định không.

Quá trình kiểm sát bản án có thể thiết lập bảng biểu Excel với các cột mục ghi đầy đủ thông tin của các loại bản án, quyết định: Số, ngày ban hành; tên đương sự; thời gian Viện kiểm sát sơ thẩm nhận được bản án, quyết định, thời gian gửi đến VKSND thành phố; vi phạm Viện kiểm sát cấp sơ thẩm phát hiện và thiếu sót, vi phạm của Tòa án do Viện kiểm sát phát hiện… Tập hợp những vi phạm phổ biến (về thời hạn, không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, xác định sai tư cách người tham gia tố tụng, sai mối quan hệ tranh chấp, xét xử vượt quá yêu cầu khởi kiện, án phí...) để ban hành kiến nghị hoặc thông báo rút kinh nghiệm.

6. Về ban hành kháng nghị và bảo vệ kháng nghị

Trên cơ sở tham gia phiên tòa, phiên họp và kết quả kiểm sát bản án, quyết định, khi phát hiện bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự không khách quan, chính xác, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, lợi ích công cộng, tài sản công thì phải thực hiện quyền kháng nghị. Kháng nghị về tố tụng, về nội dung hay cả hai; kháng nghị một phần hay toàn bộ bản án, quyết định phải có căn cứ pháp luật và lập luận rõ ràng. Viện kiểm sát các cấp cần phối hợp chặt chẽ để thực hiện quyền kháng nghị như gửi bản án, quyết định; thông báo phát hiện vi phạm của bản án, quyết định cho VKSND cấp cao, VKSND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; phối hợp xác minh chứng cứ để kháng nghị và bảo vệ kháng nghị. Sau khi ban hành kháng nghị, nếu có thêm chứng cứ cần tập trung nghiên cứu chứng cứ đó để bảo vệ kháng nghị. Phân công Kiểm sát viên đã trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ việc, tham gia xác minh chứng cứ đề xuất kháng nghị tham gia phiên tòa để bảo vệ kháng nghị vì họ là những người nắm rõ hồ sơ vụ việc và các căn cứ để kháng nghị.

Với kháng nghị được Tòa án chấp nhận, cần tập hợp các vi phạm của bản án, quyết định bị kháng nghị gửi Viện kiểm sát các cấp để nhận diện, tham khảo, vận dụng thực hiện quyền kháng nghị cho vụ án khác. Nếu kháng nghị không được chấp nhận, cần rút kinh nghiệm về căn cứ kháng nghị (đánh giá chứng cứ hay áp dụng pháp luật). Việc không chấp nhận kháng nghị của Tòa án không có căn cứ thì báo cáo ngay Viện kiểm sát có thẩm quyền để thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm./.

Nguyễn Thị Kiều Diễm