Phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân thân người phạm tội
Ngày đăng : 08:00, 27/03/2022
Nhân thân người phạm tội là một trong bốn đối tượng nghiên cứu chính của tội phạm học và có thể tách ra nghiên cứu một cách độc lập. Có rất nhiều đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc thực hiện hành vi phạm tội của người đó và việc nghiên cứu những đặc điểm nhân thân này giúp chúng ta thấy được vai trò của những đặc điểm nhân thân xấu trong cơ chế hành vi phạm tội, từ đó xây dựng được các biện pháp phòng ngừa tội phạm cũng như những biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành những người có ích trong xã hội.
Phòng ngừa tội phạm
Tư tưởng về phòng ngừa tội phạm và sự cần thiết xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử loài người, nó gắn với trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm nhằm mục đích duy trì trật tự xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tội phạm phát sinh và tồn tại là do những nguyên nhân và điều kiện khác nhau, song “với bản chất tốt đẹp của mình, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có khả năng tiến hành cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có kết quả. Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải được coi là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp và trong cuộc đấu tranh đó, phải đặc biệt quan tâm đến công tác phòng ngừa tội phạm...”. Ở nước ta, quan điểm về tội phạm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lấy giáo dục, phòng ngừa tội phạm là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống tội phạm tốt. Người đã từng nói “Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”.
Mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề phòng ngừa tội phạm, tuy nhiên có thể rút ra điểm chung trong nhận thức về khái niệm phòng ngừa tội phạm là hoạt động do các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan Nhà nước khác và tổ chức xã hội, mọi công dân áp dụng tổng hợp và đồng bộ hệ thống các biện pháp khác nhau nhằm thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm ngăn chặn, kiềm chế làm giảm và từng bước đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Lý luận cơ bản về phòng ngừa tội phạm không xác định các biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể mà chỉ đưa ra những chỉ dẫn có tính nguyên tắc, định hướng cho việc nghiên cứu, đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm trên cơ sở khảo sát đánh giá tình hình tội phạm và xác định nguyên nhân của tội phạm nhằm từng bước ngăn chặn tội phạm và kiềm chế không cho tội phạm phát triển, qua đó từng bước đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Các chủ thể chính của hoạt động này là các cơ quan chuyên trách trong công tác bảo vệ pháp luật và phòng, chống tội phạm cụ thể là Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, cơ quan Thi hành án hình sự và một số cơ quan khác (Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển...) nhằm ba mục đích sau:
Một là, loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, xóa bỏ các tác nhân phát sinh tội phạm.
Hai là, nghiên cứu môi trường sống (gia đình - nhà trường - xã hội) xung quanh người phạm tội, qua đó phát hiện quy luật tác động, sự hình thành nhân thân tiêu cực của người phạm tội nhằm hạn chế, ngăn ngừa những yếu tố có ảnh hưởng bất lợi và không đúng đến việc hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực chống đối xã hội của bản thân người phạm tội. Hướng này mang tính cơ bản chiến lược, lâu dài, thể hiện tính nhân đạo, đồng thời cũng là mục đích và mong muốn của xã hội.
Ba là, trên cơ sở này, đưa ra các giải pháp tổng thể và có hệ thống phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, các tác nhân ảnh hưởng và những thiếu sót trong cơ chế quản lý về các mặt (như: Kinh tế, xã hội, công tác tổ chức cán bộ...), cũng như kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác.
Thực tế đã khẳng định phương hướng này có ý nghĩa đặc biệt trong việc làm giảm, hạn chế sự gia tăng của tội phạm và điều chỉnh tình hình đó theo hướng làm giảm mức độ nguy hiểm lớn nhất đối với xã hội, khi mà khả năng và điều kiện thực tế chưa cho phép thủ tiêu hết ngay các nguyên nhân của tội phạm cụ thể nói riêng và tình hình tội phạm nói chung.
Đặc điểm nhân thân người phạm tội và mối quan hệ với nguyên nhân của tội phạm
Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học được xác định là “tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó”. Hành vi phạm tội là kết quả không mong đợi của quá trình tương tác lâu dài giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống với các yếu tố bên trong của cá nhân con người cụ thể trong một khoảng thời gian, không gian nhất định làm hình thành đặc điểm nhân thân xấu (nhân cách lệch lạc) của người đó - phản ánh sự đổ vỡ của hệ thống chuẩn mực giá trị xã hội trong tâm lý của họ mà hình thành nên hệ giá trị mang tính chủ nghĩa cá nhân, có tính tiêu cực. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội “sẽ giúp người nghiên cứu thấy được đặc điểm nào là đặc trưng có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện tội phạm, từ đó có thể dự đoán được tội phạm xảy ra trong tương lai, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phòng ngừa phù hợp”.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu, phân loại đặc điểm nhân thân người phạm tội nhưng khái quát lại có thể nhận thấy 03 nhóm đặc điểm như sau:
Nhóm các đặc điểm sinh học - xã hội: Bao gồm các yếu tố như giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình… Bản thân nó tồn tại trong nhân thân của bất kỳ người nào. Tập hợp các thông tin về đặc điểm này qua thống kê hình sự có thể cho chúng ta các kết luận quan trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội như mức độ trội lên của một vài đặc điểm sinh học - xã hội thuộc loại tội hoặc nhóm tội phạm.
Nhóm đặc điểm tâm lý - đạo đức: Bao gồm đặc điểm thể hiện quan điểm, quan niệm, thái độ, ý thức, khí chất của người phạm tội đối với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật.
Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự: Đây là nhóm đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Các dấu hiệu bao gồm động cơ, mục đích phạm tội; hình thức thực hiện tội phạm; trường hợp phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Trong ba nhóm đặc điểm nhân thân người phạm tội (như phân tích trên) thì nhóm đặc điểm đạo đức - tâm lý của người phạm tội thể hiện rõ nhất nhân cách, phẩm chất lệch lạc của người đó, có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Bởi các đặc điểm tâm lý - đạo đức của con người nói chung và người phạm tội nói riêng không phải tự nhiên có, cũng không được hình thành một cách tức thời mà được hình thành thông qua một quá trình lâu dài và phức tạp. Các đặc điểm về đạo đức - tâm lý sẽ luôn luôn vận động, thay đổi cùng với sự biến động của môi trường sống. Sự thay đổi của môi trường sống trong sự tương tác với nhận thức của con người sẽ giúp cho việc hình thành những nhận thức mới hoặc thay đổi những quan điểm hay lối sống cũ để tạo ra những đặc điểm nhân thân mới. Nếu như coi quá trình phát sinh tội phạm (nguyên nhân của tội phạm) là một cơ chế hoàn chỉnh bao gồm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu là sự tác động của môi trường sống đến cá nhân để hình thành nhân cách lệch lạc và giai đoạn tiếp theo là sự tác động qua lại giữa nhân cách lệch lạc với môi trường trong những tình huống tiêu cực làm phát sinh hành vi phạm tội thì vấn đề nhân thân người phạm tội sẽ có vai trò là giai đoạn tiền đề không thể tách rời của quá trình phát sinh tội phạm.
Quá trình hình thành các đặc điểm tâm lý - đạo đức của người phạm tội đã cho thấy rõ ràng việc hình thành những đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội có liên quan mật thiết với nguyên nhân của tội phạm; nghiên cứu sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội không thể tách rời việc nghiên cứu sự hình thành các phẩm chất tâm lý - đạo đức tiêu cực của người phạm tội. Chúng tôi đồng ý với quan điểm: “Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội”.
Như vậy, quá trình tương tác góp phần hình thành đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội sẽ trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên diễn ra trong một thời gian dài do sự tác động của môi trường sống tiêu cực đến con người phạm tội, nó được kết thúc ở sự hình thành động cơ trong tư tưởng. Kết quả của sự tương tác trong giai đoạn này, góp phần hình thành trong họ tâm lý - đạo đức, nhân cách lệch lạc. Đặc trưng của giai đoạn này là các quá trình tiếp nhận chỉ diễn ra trong tư tưởng con người. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn được bộc lộ ra ngoài, trong những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực nhất thông qua việc chuẩn bị, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội. Phát hiện ra cơ chế này sẽ giải thích được tại sao trong điều kiện, hoàn thành tương tự nhau nhưng có người phạm tội, có người lại không phạm tội.
Một số biện pháp phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân thân người phạm tội
Từ kết quả của việc phân tích đặc điểm và mối quan hệ giữa nhân thân người phạm tội với nguyên nhân của tội phạm, chúng ta có thể xây dựng biện pháp phòng ngừa tội phạm. Hệ thống biện pháp này cần xuất phát từ chính những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân tiêu cực của người phạm tội. Cụ thể, phải hướng đến việc hạn chế hay loại trừ trước hết các yếu tố tiêu cực của môi trường xã hội cũng như một số đặc điểm tâm sinh lý có vai trò tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội. Trên cơ sở hệ thống biện pháp phòng ngừa tội phạm toàn diện như vậy mới có tác dụng làm hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố phát sinh hành vi phạm tội.
Thứ nhất, các biện pháp hạn chế các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống.
- Đối với môi trường gia đình: Gia đình là môi trường đầu tiên mà những đứa trẻ sinh ra và tiếp xúc, nhận thức của chúng được hình thành từ những hoạt động sống hàng ngày của những người xung quanh. Thực tiễn cho thấy, phần lớn các đối tượng vi phạm pháp luật rơi vào hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế, bố mẹ là đối tượng hình sự, rượu chè, cờ bạc, cha mẹ ly hôn, ly thân. Trong gia đình, việc quản lý, giáo dục trẻ chưa phù hợp, thiếu quan tâm đến trẻ, để trẻ tiếp xúc với những thành phần xấu của xã hội, bị kẻ xấu lôi kéo vào con đường phạm pháp... Chính vì vậy, mỗi gia đình cần có sự hòa thuận, gắn bó, quan tâm chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên. Việc giáo dục các thành viên trong gia đình đòi hỏi cần có phương pháp phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi; với khí chất, trí tuệ, năng khiếu; tập luyện cho trẻ ý thức, thói quen tự lập, không ỷ lại, dựa dẫm, biết quý trọng công sức lao động của bản thân và người khác... để mỗi người tự tin bộc lộ hết khả năng của mình.
- Đối với môi trường nhà trường: Trường học chính là nơi rèn luyện tri thức, nền tảng đạo đức, giúp uốn nắn nhân cách của mỗi con người. Nhà trường ngoài việc truyền dạy kiến thức phổ thông cần phải lồng ghép giảng dạy các môn học kỹ năng, tổ chức các buổi ngoại khóa chuyên đề về nâng cao nhận thức và kỹ năng sống cho các bạn trẻ. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tạo cho các em ý thức chấp hành kỷ luật, ý thức tự giác ngay từ khi còn nhỏ, giúp các em hình thành thói quen, chấp hành nghiêm nội quy của nhà trường. Tạo cho các em sân chơi lành mạnh, phong phú, đa dạng như mô hình đội, nhóm, câu lạc bộ, trung tâm sinh hoạt thể thao, văn hóa... giúp các em giao lưu, học hỏi lẫn nhau nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc giao lưu với những nhóm tiêu cực ngoài xã hội và tránh xa những thói quen xấu. Ngoài ra, phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với gia đình trong việc trao đổi thông tin để cùng quản lý, giáo dục các em phát triển toàn diện...
- Đối với môi trường nơi làm việc: Cần nâng cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong công tác quản lý cán bộ, trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ; hạn chế việc cá nhân lợi dụng sơ hở làm trái quy định của nhà nước, hình thành thái độ vụ lợi, thờ ơ, coi thường pháp luật, coi thường kỷ luật.
- Đối với môi trường nơi sinh sống: Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, gắn với công tác bảo đảm an ninh trật tự, phòng, chống tội phạm. Nâng cao trình độ dân trí, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động. Tổ chức lồng ghép các hoạt động văn hóa với xây dựng nông thôn mới, các hương ước, quy ước tại cộng đồng dân cư; xây dựng đời sống văn hóa ở cơ quan, đơn vị, trường học và khu dân cư nhằm hạn chế và loại bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. Thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở, tập trung giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; giải quyết kịp thời, triệt để khiếu nại, tố cáo không để phức tạp kéo dài phát sinh thành “điểm nóng” về an ninh trật tự. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong phòng, chống tội phạm.
- Đối với môi trường kinh tế - xã hội - văn hóa với Nhà nước là chủ thể quản lý:
+ Phát triển kinh tế cần hướng tới lợi ích chung, nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, sự chênh lệch giữa các địa bàn nhằm góp phần hạn chế tội phạm. Nhà nước cần có biện pháp thu hẹp khoảng cách về mức sống, về thu nhập của người lao động giữa các vùng miền; góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân ở vùng nông thôn, miền núi, vùng còn nhiều khó khăn.
+ Phát triển kinh tế cần đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội như đói nghèo, việc làm, thu nhập. Nhà nước cần có chiến lược, chính sách, kế hoạch ưu tiên đối với người dân tộc, người có thu nhập thấp; mạnh dạn đầu tư, vay vốn phát triển kinh tế, chủ động tổ chức dạy nghề để cung ứng lao động có tay nghề cao cho các khu công nghiệp.
+ Tăng cường quản lý cư trú, kiểm soát chặt chẽ người đến tạm trú, lưu trú, đặc biệt là nơi có khu công nghiệp, có nhiều nhà nghỉ. Cơ quan Công an phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ quản lý các đối tượng hình sự, tổ chức các đợt tấn công trấn áp tội phạm. Rà soát các đối tượng, băng nhóm có biểu hiện nghi vấn. Thông qua hoạt động này giúp các cơ quan có thẩm quyền phát hiện được sơ hở và kịp thời kiến nghị, ngăn chặn tội phạm.
+ Tăng cường quản lý các cơ sở kinh doanh có điều kiện thông qua công tác thanh tra, kiểm tra; xử lý nghiêm và triệt để các hành vi vi phạm quy định; củng cố, duy trì phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, làm tốt công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, đặc biệt là quản lý, giáo dục số đối tượng mới nổi, các đối tượng có nguy cơ cao phạm tội, các đối tượng tù tha, đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng nghiện ma túy; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể trong công tác phát hiện, xử lý, trình báo người phạm tội.
+ Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống văn hóa, thể thao. Khuyến khích, tạo điều kiện để nhân dân tham gia luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên; đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học nhằm xây dựng được môi trường văn hóa lành mạnh, phát triển con người toàn diện, thấm nhuần truyền thống văn hóa và hạn chế tác động tiêu cực đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu. Tăng cường các biện pháp quản lý, phòng chống văn hóa phẩm độc hại, các tệ nạn xã hội, tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định kinh doanh của các cơ sở kinh doanh internet, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp lập trang web, phát tán, chia sẻ phim ảnh, bài viết có nội dung vi phạm pháp luật.
Thứ hai, các biện pháp tác động đến nhận thức, tâm lý - đạo đức của con người.
Biện pháp này ở phạm vi nhất định cần có sự phối hợp đồng bộ với các biện pháp hạn chế tác động tiêu cực từ môi trường sống. Nội dung các biện pháp này hướng đến việc Nhà nước cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của người dân. Các biện pháp tuyên truyền cần đa dạng về hình thức và phù hợp với các lứa tuổi, ngành nghề khác nhau, đặc biệt chú ý đến các đối tượng là người dân tộc ít người có trình độ văn hóa thấp, các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng, những người đang trong quá trình chấp hành án chuẩn bị trở về cộng đồng. Việc tuyên truyền pháp luật phải giúp người dân biết được những hậu quả pháp lý bất lợi phải gánh chịu khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Từ đó góp phần tăng tính răn đe, giáo dục, kiềm chế dẫn đến từ bỏ ý định phạm tội./.