Lấy ý kiến sửa đổi, bổ sung hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự về án treo
Ngày đăng : 14:48, 03/12/2021
Cụ thể, Dự thảo sửa đổi một trong các điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP là có nhân thân tốt.
Người được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Dự thảo bổ sung quy định: Khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật.
Những trường hợp không cho hưởng án treo
Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung về một số trường hợp không cho hưởng án treo quy định tại Điều 3 như sau: Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ các trường hợp sau đây: Các tội phạm đã thực hiện đều là tội phạm ít nghiêm trọng; trong các tội phạm đã thực hiện, người phạm tội tham gia là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể; người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
Người phạm tội 2 lần trở lên, trừ các trường hợp sau: Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng; các lần phạm tội, người phạm tội tham gia là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể; các lần phạm tội sau do người phạm tội tự thú; người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Trường hợp vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) thì việc xem xét cho hưởng án treo được xác định như sau: Không coi việc người phạm tội đã bị kết án trong vụ án trước đó là căn cứ xác định “phạm tội 2 lần trở lên”, trừ trường hợp các hành vi phạm tội bị xem xét, xử lý hình sự trong các giai đoạn là độc lập với nhau. Không coi việc người phạm tội đã bị kết án trong vụ án trước đó là có nhân thân không tốt để không cho hưởng án treo nếu họ có đủ các điều kiện khác để được hưởng án treo.
Dự thảo cũng bổ sung Điều 4a về thời gian tạm giữ, tạm giam của người được hưởng án treo. Theo đó, thời gian tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Trường hợp trong thời gian thử thách nếu họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì khi giải quyết tòa án trừ thời gian họ đã bị tạm giữ, tạm giam này vào bản án đã cho hưởng án treo hoặc bản án mới.
Ngoài ra, Dự thảo bổ sung thêm trường hợp người được hưởng án treo nhưng bị buộc phải chấp hành hình phát tù của bản án đã cho hưởng án treo do cố ý vi phạm nghĩa vụ. Theo đó, người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép được xác định như sau:
Người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép, cơ quan có thẩm quyền căn cứ Điều 87, Điều 91 và Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự lập biên bản vi phạm nghĩa vụ, nhắc nhở lần 01 và triệu tập người này để tiếp tục thi hành án nhưng họ vẫn không có mặt theo giấy triệu tập nên cơ quan có thẩm quyền tổ chức kiểm điểm vắng mặt và lập biên bản kiểm điểm vắng mặt được xác định là vi phạm nghĩa vụ lần 01.
Căn cứ Điều 93 của Luật Thi hành án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nhưng người này vẫn không có mặt nên bị lập biên bản nhắc nhở lần 02. Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nếu người này vẫn không có mặt thì được coi là vi phạm nghĩa vụ lần 02.
Theo Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.