Vì sao Công an Hà Nội chuyển hồ sơ sang Cơ quan điều tra VKSND tối cao vụ Trưởng phòng Cảnh sát kinh tế bị đình chỉ công tác?
Ngày đăng : 09:59, 26/02/2021
Đại tá Phùng Anh Lê – Trưởng phòng Cảnh sát kinh tế Công an Hà Nội bị đình chỉ công tác để cơ quan chức năng làm rõ một số dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp |
Đến nay, toàn bộ hồ sơ vụ việc đã được Công an TP Hà Nội chuyển sang Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý điều tra theo thẩm quyền.
Luật sư Nguyễn Tiến Hùng – Văn phòng Luật sư Nguyễn Khánh Toàn và cộng sự (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho biết, hoạt động tư pháp là những hoạt động có liên quan đến việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử và hoạt động thi hành án. Những hoạt động này nhằm thực hiện quyền tư pháp là quyền phán xét, đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người cũng như đối với các quyết định, văn bản của cơ quan, tổ chức.
Chủ thể thực hiện hoạt động tư pháp chủ yếu là cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, cơ quan thi hành án) và một số cơ quan tổ chức có chức năng nhiệm vụ bổ trợ tư pháp.
Hoạt động tư pháp được thực hiện đúng đắn trên cơ sở các quy định của pháp luật, theo chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Do đó, những chủ thể và hoạt động nêu trên mà xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án đều có thể trở thành chủ thể của tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
Theo quy định tại Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Cơ quan điều tra VKSND tối cao có thẩm quyền tiến hành điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân.
Luật sư Nguyễn Tiến Hùng – Văn phòng Luật sư Nguyễn Khánh Toàn và cộng sự (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) |
Nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Chương XXIV Bộluật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, bao gồm 24 tội danh (từ Điều 368 đến Điều 391). Căn cứ vào chủ thể thực hiện hành vi phạm tội mà các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được phân thành ba nhóm sau:
Nhóm các tội phạm mà người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc trong lĩnh vực khác (có 14 tội thuộc nhóm này) bao gồm từ Điều 368 đến Điều 379, Điều 381 và Điều 385. Nhóm các tội phạm này là các tội quy định đối với những người có chức vụ, quyền hạn trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc trong lĩnh vực khác có những hành vi cố ý gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Nhóm các tội phạm mà người phạm tội là người tham gia tố tụng (có 5 tội thuộc nhóm này) bao gồm các Điều 380, 382, 283, 386, 388. Nhóm các tội phạm này là các tội quy định đối với người tham gia tố tụng có những hành vi cố ý gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Nhóm các tội phạm mà người phạm tội là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm dân sự và từ đủ 16 tuổi trở lên (có 5 tội thuộc nhóm này) bao gồm các điều: Điều 384, Điều 387, Điều 389, Điều 390, Điều 391. Nhóm tội phạm này là các tội quy định đối với người có năng lực trách nhiệm dân sự và từ đủ 16 tuổi trở lên, có những hành vi cố ý gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Theo Luật sư Nguyễn Tiến Hùng, trong thực tế một số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp phổ biến có thể kể đến như:
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được quy định tại Điều 368 Bộ luật Hình sự: “… Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm…”. Hành vi của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã khởi tố, kết luận điều tra, truy tố đối với người mà mình biết rõ là không có tội.
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội được quy định tại Điều 369 Bộ luật Hình sự: “… Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Trái ngược với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, của tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã không khởi tố, không truy tố đối với người mà mình biết rõ là có tội.
Tội ra quyết định trái pháp luật:
Ra quyết định trái pháp luật là hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật. Trường hợp ra quyết định trái pháp luật nhưng cấu thành một trong các tội: Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368), Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 369), Ra bản án trái pháp luật (Điều 370), Lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377) hoặc Tha trái pháp luật người người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù (Điều 378) thì không truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội ra quyết định trái pháp luật mà áp dụng các tội tương ứng trên để xử lý.
Tội ra bản án trái pháp luật:
Tội ra bản án trái pháp luật được quy định tại Điều 370 Bộ luật Hình sự: “… Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm…”. Hành vi ra bản án trái pháp luật là hành vi là hành vi của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ký vào bản án và ban hành bản án mà biết rõ là áp dụng không đúng với quy định của pháp luật.
Tội dùng nhục hình:
Tội dùng nhục hình là hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã dùng bạo lực hoặc dùng các thủ đoạn khác gây tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm đối với người bị tố giác, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác.
Tội bức cung:
Tội bức cung được quy định tại Điều 374 Bộ luật Hình sự: “… Người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng thủ đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy lời khai, hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.
Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc:
Làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc là hành vi của người trực tiếp thụ lý, quản lý hồ sơ vụ án, vụ việc hoặc người khác được tiếp xúc với hồ sơ vụ án, vụ việc, thực hiện hành vi thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung vụ án, vụ việc.
Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
Thiếu trách nhiệm để người bị bắt, giam, giữ, người đang thi hành án phạt tù trốn là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao của người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải người bị bắt, giam, giữ, đang chấp hành án phạt tù để người đó trốn hoặc gây hậu quả nhất định.
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật là lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao để ra lệnh, quyết định hoặc không ra lệnh, quyết định hoặc không chấp hành quyết định hoặc thực hiện việc các hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật.
Tội tha trái pháp luật người bì bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù:
Tha trái pháp luật người đang bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền tha người đang bị bắt, giam, giữ, thi hành án phạt tù không đúng với quy định của pháp luật.
Tội không thi hành án:
Không thi hành án là hành vi của người có thẩm quyền thi hành án mà cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án.
Tội không chấp hành án:
Không chấp hành án là hành vi của người phải thi hành án nhưng cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết.