Triệu Quốc Q phạm tội làm sai lệch hồ sơ vụ án
Ngày đăng : 08:39, 12/11/2020
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) |
Theo qua điểm tác giả, Triệu Quốc Q là người được phân công xác minh, phát hiện, lập hồ sơ đối với những người nghiện ma túy có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để đề nghị cơ quan có thẩm quyền đưa đi cai nghiện bắt buộc, nhưng Triệu Quốc Q đã làm giả giấy tờ làm sai lệch bản chất, nội dung vụ việc nhằm đưa Lò Văn T là người không bị nghiện đi cai nghiện bắt buộc. Nếu không phải là Triệu Quốc Q thì không ai có thể lập được hồ sơ khống đối với anh Lò Văn T. Như vậy, Q đã lợi dụng nhiệm vụ, thẩm quyền được giao để lập hồ sơ khống, làm sai lệch bản chất vụ việc, để đưa T đi cai nghiện bắt buộc một cách trái pháp luật.
Bởi vì, hồ sơ vụ án, vụ việc của các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết cần phải hiểu là tập hợp những tài liệu, vật chứng được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định nhằm bảo đảm tính khách quan, toàn diện, đầy đủ để phục vụ cho việc giải quyết vụ án, vụ việc đúng pháp luật mà hồ sơ vụ án, vụ việc bao gồm: Hồ sơ vụ án hình sự; hồ sơ vụ án dân sự, hồ sơ việc dân sự; hồ sơ vụ án kinh doanh, thương mại, hồ sơ việc kinh doanh, thương mại; hồ sơ vụ án lao động, hồ sơ việc lao động; hồ sơ vụ án hành chính; hồ sơ vụ việc hành chính để Tòa án áp dụng biện pháp hành chính ra quyết định đưa người đi cai nghiện bắt buộc….
Về khách thể của hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc là xâm phạm trực tiếp đến nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, vụ việc. Do hồ sơ mà Triệu Quốc Q lập là giả nên đã làm sai lệch vụ việc giải quyết của Tòa án dẫn đến hồ sơ không phản ánh đúng với sự thật khách quan dẫn đến làm cho Lò Văn T phải đi cai nghiện oan 07 tháng gây ra thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Lò Văn T;
Về hành vi khách quan: Triệu Quốc Q đã có hành vi gian dối như Triệu Quốc Q đã xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ giả gồm giấy xác nhận Lò Văn T là người nghiện ma túy, có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã do nghiện ma túy mà hiện vẫn còn nghiện; còn thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân; các Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013, Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để chuyển cho Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh B đề nghị đưa Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trong đó, hồ sơ mà Triệu Quốc Q làm giả gồm: Quyết định ngày 10/01/2019 của Chủ tịch UBND xã N, huyện S thể hiện Lò Văn T đã bị Chủ tịch UBND xã N, huyện S đã ra quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện tại công đồng; biên bản ngày 23/7/2019 của Trạm y tế xã N, huyện S về việc kiểm tra nhanh ma túy đối với Lò Văn T thể hiện Lò Văn T có dương tính với ma túy và cả các dấu vân tay đã điểm chỉ của Lò Văn T vào các tài liệu trong hồ sơ đều được làm giả, không đúng sự thật để xác định Lò Văn T là người nghiện ma túy, có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã do nghiện ma túy mà hiện nay vẫn còn nghiện; còn thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của pháp luật. Với kết quả như vậy Triệu Quốc Q đã làm thay đổi hoàn toàn bản chất của vụ việc áp dụng biện pháp hành chính cai nghiện bắt buộc tại Tòa án, mà cụ thể trong trường hợp này là Lò văn T không có nghiện ma túy và cũng không bị Chủ tịch UBND xã N, huyện S ra quyết định cai nghiện tại cộng đồng.
Như vậy, hành vi của Triệu Quốc Q đã làm sai lệch hồ sơ vụ việc, dẫn đến nội dung vụ việc cũng thay đổi hoàn toàn đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng. Với mục đích để Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa đi cai nghiện đối với Lò Văn T. Vì vậy, ở đây rõ ràng lổi của Triệu Quốc Q là lỗi cố ý.
Đối với tội làm sai lệch hồ sơ vụ án cấu thành hình thức thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng trong trường hợp này hậu quả đã xảy ra làm cho Lò Văn T đã bị bắt đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc oan 07 tháng. Vì vậy, khi Triệu Quốc Q đã làm giả Quyết định ngày 10/01/2019 của Chủ tịch UBND xã N, huyện S; biên bản ngày 23/7/2019 của Trạm y tế xã N, huyện S về việc kiểm tra nhanh ma túy đối với Lò Văn T thể hiện T có dương tính với ma túy và cả các dấu vân tay đã điểm chỉ của T. Như vậy, về mặt hành vi của Triệu Quốc Q là đã hoàn thành việc làm sai lệch hồ sơ vụ việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Tòa án.
Về mặt chủ thể: Theo quy định tại Điều 375 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) thì chủ thể thực hiện tội phạm này gồm: “Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp……”. So với BLHS năm 1999 thì Điều 375 BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm chủ thể là “người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp”. Như vậy, có thấy rằng một người thông thường không thể phạm vào tội quy định tại điều luật này, mà chỉ có những người đã được quy định trong điều luật mới là chủ thể thực hiện những hành vi phạm tội quy định tại Điều 375 BLHS. Do vậy, Triệu Quốc Q là Công an viên có thẩm quyền được lập hồ sơ vụ việc, để tham mưu cho Chủ tịch UBND xã làm các thủ tục để đề nghị cơ quan có thẩm quyền ở đây là Tòa án để áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Lò Văn T đi cai nghiện bắt buộc.
Trong vụ việc này, Triệu Quốc Q, vì muốn địa bàn mình quản lý trong sạch không có người nghiện ma túy, nên đã có hành vi gian dối, để làm giả các giấy tờ như: Quyết định ngày 10/01/2019 của Chủ tịch UBND xã N, huyện S thể hiện Lò Văn T đã bị cai nghiện tại cộng đồng và biên bản ngày 23/7/2019 của Trạm y tế xã N, huyện S về việc kiểm tra nhanh ma túy đối với Lò Văn T chứng minh T có dương tính với ma túy và cả các dấu vân tay đã điểm chỉ của T vào các tài liệu trong hồ sơ. Vì vậy, hành vi của Triệu Quốc Q thực hiện đã làm sai lệch hồ sơ vụ việc, dẫn đến nội dung vụ việc cũng thay đổi hoàn toàn từ việc Lò Văn T không nghiện ma túy thành nghiện ma túy và Lò Văn T không bị Chủ tịch UBND xã N, huyện S ra quyết định cai nghiện tại cộng đồng thở thành Lò Văn T đã bị Chủ tịch UBND xã N, huyện S ra quyết định tại công đồng đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng nên hành vi của Triệu Quốc Q đã cấu thành tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án” quy định tại Điều 375 BLHS năm 2015;
Đối với quan điểm thứ nhất cho rằng, Triệu Quốc Q phạm tội vu khống theo quy định tại Điều 156 BLHS năm 2015 là không đúng. Bởi lẽ, khái niệm tội vu khống được quy định tại Điều 156 BLHS năm 2015 như sau: “ 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền”.
Như vậy, về mặt khách quan của tội vu khống có các dấu hiệu một trong ba dạng hành vi sau đây:
Bịa đặt: Hành vi này được thể hiện thông qua việc người phạm tội đưa ra những thông tin không đúng sự thật, tự nghĩ ra một điều gì đó mà không có với người khác. Hình thức đưa ra thông tin có thể ở các dạng khác nhau như truyền miệng, viết đơn, qua các phương tiện thông tin đại chúng,…
Loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật, Người phạm tội dù không bịa đặt nhưng lại loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt. Việc loan truyền thông tin cũng có thể thể hiện đa dạng qua nhiều hình thức như: kể lại cho người khác nghe, đăng bài, chia sẻ bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng,…
Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Người phạm tội dù biết rõ người mình tố giác không có hành vi phạm tội nhưng vẫn tố cáo họ trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền….. Nhưng trong trường hợp này thì Triệu Quốc Q là người có thẩm quyền được giao nhiệm vụ lập hồ sơ nhưng Triệu Quốc Q muốn địa bàn mình quản lý trong sạch đã làm giả các giấy tờ như: Quyết định ngày 10/01/2019 của Chủ tịch UBND xã N, huyện S thể hiện T đã bị cai nghiện tại cộng đồng và biên bản ngày 23/7/2019 của Trạm y tế xã N, huyện S về việc kiểm tra nhanh ma túy đối với Lò Văn T chứng minh Lò Văn T có dương tính với ma túy và cả các dấu vân tay đã điểm chỉ của Lò Văn T vào các tài liệu trong hồ sơ. Do vậy, Triệu Quốc Q không thỏa mãn dấu hiệu của tội vu khống như quan điểm thứ nhất đã lập luận.
Quan điểm thứ ba cho rằng, hành vi của Triệu Quốc Q đã đủ yếu tố cấu thành tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015 cũng không đúng bởi lẽ, tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức là hành vi như: Đúc, khắc… để tạo ra con dấu giả giống như con dấu thật của cơ quan, tổ chức; vẽ, in, phôtô, viết, các kỹ thuật khác… để làm ra các loại giấy tờ, tài liệu giả giống như các loại tài liệu, giấy tờ thật của cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật như bán lại cho người khác, giao nộp tài liệu giả cho cơ quan chức năng… Mục đích nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức để hưởng lợi. Nhưng trong trường hợp của Triệu Quốc Q không nhằm mục đích hưởng lợi mà nhằm mục đích để đưa Lò Văn T đi cai nghiện để được trong sạch địa bàn mà mình được giao quản lý nên không thỏa mãn dấu hiệu của tội tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức như quan điểm thứ ba lập luận.