Đưa người không bị nghiện đi cai nghiện bắt buộc thì xử lý thế nào?

Ngày đăng : 09:05, 05/11/2020

(Kiemsat.vn) - Nội dung vụ việc: Triệu Quốc Q là công an viên xã N, huyện S, tỉnh B, là người xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ chuyển cho Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh B đề nghị đưa anh Lò Văn T, 34 tuổi, trú tại xã N, huyện S, tỉnh B vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Hồ sơ thể hiện anh Lò Văn T là người nghiện ma túy, có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã do nghiện ma túy mà hiện vẫn còn nghiện; còn thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân; các Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013, Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 

Trên cơ sở hồ sơ do Triệu Quốc Q lập (hồ sơ này đã được Phòng tư pháp; Phòng lao động, thương binh và xã hội huyện S kiểm tra, đối chiếu theo quy định), ngày 06/9/2019, Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh B mở phiên họp để xem xét và đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 01 năm.

Thực hiện quyết định của Tòa án, ngày 15/01/2020, Công an huyện S đã đưa Lò Văn T vào Trung tâm cai nghiện bắt buộc tỉnh B. Ngày 20/5/2020, chị Lò Thị Đ (là vợ của anh Lò Văn T) có đơn gửi Tòa án nhân dân tỉnh B khiếu nại Quyết định của Tòa án huyện S, yêu cầu trả tự do cho anh Lò Văn T, do chồng chị từ trước đến nay không nghiện ma túy. 

Kết quả xác minh của cơ quan chức năng cho thấy: 

Hồ sơ do Triệu Quốc Q lập đề nghị đưa anh Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hồ sơ được lập khống, giả mạo tài liệu, giấy tờ không đúng trình tự, thủ tục, không đúng đối tượng theo quy định của pháp luật.

Các tài liệu trong hồ sơ thể hiện anh Lò Văn T đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã (Quyết định ngày 10/01/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) xã N, huyện S); tài liệu chứng minh có dương tính với ma túy (Biên bản ngày 23/7/2019 của Trạm y tế xã N, huyện S về việc kiểm tra nhanh ma túy đối với Lò Văn T) và cả các dấu vân tay đã điểm chỉ vào các tài liệu trong hồ sơ đều được làm giả, không đúng sự thật. 

Anh Lò Văn T không phải là người nghiện ma túy; chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã N, không thuộc đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính; khoản 1 Điều 3 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Động cơ, mục đích của việc lập hồ sơ khống của Triệu Quốc Q là muốn làm trong sạch địa bàn, vì nghi ngờ Lò Văn T là đối tượng nghiện nên đã lập hồ sơ để chuyển cơ quan có thẩm quyền đưa Lò Văn T đi cai nghiện bắt buộc.

Ngày 15/8/2020, Tòa án nhân dân tỉnh B mở phiên họp, ban hành Quyết định số 01/2020/QĐ-TA hủy Quyết định số 11/2019/QĐ-TA ngày 06/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện S. Anh Lò Văn T được trả tự do ngay tại phiên họp. 

Khi xem xét trách nhiệm, xác định tội danh đối với Triệu Quốc Q, hiện có 03 quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng,Triệu Quốc Q phạm tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi lẽ, Lò Văn T là người không nghiện, không có tên trong danh sách người nghiện của xã N, chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã N, huyện S, nhưng Triệu Quốc Q bịa đặt là Lò Văn T bị nghiện ma túy, nên đã tự lập hồ sơ khống đề nghị đưa T đi cai nghiện bắt buộc, hậu quả là T đã bị bắt đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc oan 07 tháng. 

Quan điểm thứ hai cho rằng, Triệu Quốc Q phạm tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc theo quy định tại Điều 375 Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi Triệu Quốc Q là người được phân công xác minh, phát hiện, lập hồ sơ đối với những người nghiện ma túy có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để đề nghị cấp, cơ quan có thẩm quyền đưa đi cai nghiện bắt buộc, nhưng đã thêm, bớt, sửa đổi tài liệu, giấy tờ làm sai lệch bản chất, nội dung sự việc nhằm đưa Lò Văn T là người không bị nghiện đi cai nghiện bắt buộc. Nếu không phải là Q thì không ai có thể lập được hồ sơ khống đối với anh Lò Văn T. Rõ ràng là Q đã lợi dụng nhiệm vụ, thẩm quyền được giao để lập hồ sơ khống, làm sai lệch bản chất vụ việc, để đưa T đi cai nghiện bắt buộc một cách trái pháp luật.

Quan điểm thứ ba cho rằng, hành vi của Triệu Quốc Q đã đủ yếu tố cấu thành Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi lẽ đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước. Q đã làm giả Quyết định ngày 10/01/2019 của Chủ tịch UBND xã N, huyện S thể hiện Lò Văn T đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã; làm giả Biên bản ngày 23/7/2019 của Trạm y tế xã N, huyện S về việc kiểm tra nhanh ma túy đối với Lò Văn T là có dương tính với ma túy để thực hiện hành vi trái pháp luật là lập hồ sơ khống đưa Lò Văn T đi cai nghiện bắt buộc.

Đây là tình huống điển hình, phát sinh trong thực tiễn; việc giải quyết gặp khó khăn do tính chất phức tạp và có thể còn có những trường hợp tương tự. Do đó, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của đồng nghiệp và quý độc giả trên tạp chí Kiểm sát đối với nội dung vụ việc nhằm tìm ra cách giải quyết hợp lý nhất.

Thanh Hải