Nhiều ý kiến trái chiều quanh dự án Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án
Ngày đăng : 14:51, 26/05/2020
Thu phí hoà giải của 3 trường hợp
Khoản 1 Điều 1 dự án Luật đã quy định rõ: Hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Luật này không điều chỉnh và không loại trừ các hoạt động hòa giải, đối thoại đã được luật khác quy định.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu điều hành phiên họp |
Cho rằng hòa giải, đối thoại tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp mới nên cần có thời gian vào cuộc sống để phát huy hiệu quả và khuyến khích người dân lựa chọn, các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đề nghị, không nên thu phí trong tất cả trường hợp hòa giải, vì điều này sẽ làm cho các bên e ngại không chọn hòa giải. Đồng thời, chỉ nên thu phí đối với 3 trường hợp đã được quy định trong dự thảo Luật.
Một số ý kiến đề nghị cân nhắc để quy định Nhà nước thu một khoản chi phí nhất định đối với một số trường hợp. Có ý kiến đề nghị quy định đối tượng chịu chi phí là các vụ việc dân sự có giá ngạch từ 100 triệu đồng trở lên hoặc có giá trị từ một tỷ đồng trở lên; các vụ án hành chính mà pháp nhân, cá nhân có yêu cầu về trách nhiệm dân sự. Ý kiến khác đề nghị quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân phải chịu chi phí hòa giải, đối thoại trong mọi trường hợp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, hòa giải, đối thoại tại Tòa án có nhiều ưu điểm, giúp giải quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện, do đó sẽ hạn chế số lượng lớn các vụ việc phải đưa ra Tòa án xét xử. Kết quả hòa giải, đối thoại thành được các bên tự nguyện thi hành sẽ giúp tiết kiệm được khoản chi phí lớn mà hàng năm ngân sách phải đầu tư cho công tác xét xử, công tác thi hành án dân sự và tiết kiệm chi phí của xã hội. Do đây là phương thức giải quyết tranh chấp mới nên cần có thời gian để đi vào cuộc sống phát huy hiệu quả và cần khuyến khích người dân lựa chọn.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Chủ nhiệm UB Lê Thị Nga cho biết, dự thảo Luật chỉnh lý theo hướng đa số các trường hợp Nhà nước không thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Nhà nước chỉ thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án với 3 trường hợp: Pháp nhân, cá nhân nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch; chi phí phát sinh khi tiến hành hòa giải, đối thoại trong trường hợp các bên thống nhất hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở Tòa án; chi phí khi hòa giải viên xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện mà tài sản đó nằm ngoài phạm vi lãnh thổ của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc có trụ sở, trước khi Hòa giải viên lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; chi phí phiên dịch tiếng nước ngoài. Vì đây là những hoạt động phát sinh lợi nhuận hoặc thường là các khoản chi lớn, các bên có trách nhiệm chia sẻ một phần để giảm chi cho ngân sách nhà nước. Mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp do Chính phủ quy định chi tiết.
Những vấn đề xung quanh chức danh Hoà giải viên
Khoản 1, Điều 2 của dự án Luật quy định: Hòa giải viên tại Tòa án (sau đây gọi là Hòa giải viên) là người có đủ điều kiện, được Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp tỉnh) bổ nhiệm để tiến hành hòa giải tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự); đối thoại khiếu kiện hành chính theo quy định của Luật này.
Khoản (đ), điểm 2, Điều 11 quy định về bổ nhiệm Hoà Giải viên phải “có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác” cũng gây nhiều ý kiến trái chiều. Các ĐBQH Nguyễn Văn Sơn (Hà Tĩnh), Tô Ái Vang (Sóc Trăng)... đề nghị mở rộng đối tượng được bổ nhiệm hòa giải viên. Theo ĐBQH tỉnh Sóc Trăng: “nên cân nhắc đối tượng là luật sư không nhất thiết phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác như dự thảo luật, vì họ đã được đào tạo bài bản, đã được cọ xát trong quá tình tham gia tố tụng, tranh tụng trên nhiều lĩnh vực”. Thực tế, triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 cho thấy, từ khi có luật đến nay, việc thu hút cộng tác viên trợ giúp pháp lý rất khó khăn. Một trong những lý do là bị ràng buộc về điều kiện bổ nhiệm nên có rất ít đối tượng tham gia; do đó ĐB Tô Ái Vang đặt vấn đề, nên quy định đã là thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án, kiểm sát viên, kiểm tra viên Viện kiểm sát, chấp hành viên thi hành án dân sự, thanh tra viên trước khi nghỉ hưu, luật sư, trợ giúp viên pháp lý, cán bộ công chức, viên chức có chuyên ngành luật đã nghỉ hưu; chuyên gia, nhà chuyên môn khác có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác, người có hiểu biết về phong tục tập quán, có uy tín trong cộng đồng dân cư nếu có đủ điều kiện có thể được bổ nhiệm thành hòa giải viên.