Bàn về thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự

Ngày đăng : 13:50, 25/03/2020

(Kiemsat.vn) - Trong phạm vi bài viết này, tác giả nêu một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thời hạn chuẩn bị xét xử.

Thời hạn chuẩn bị xét xử trong tố tụng dân sự có ý nghĩa vô cùng to lớn trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung. Nó góp phần quyết định thời gian, tiến trình giải quyết xong vụ án. Việc quy định thời hạn chuẩn bị xét xử giúp khống chế thời gian tối đa mà Tòa án cần phải tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án và trong thời hạn đó Thẩm phán ra một trong các quyết định: Công nhận sự thoả thuận của các đương sự; Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Đưa vụ án ra xét xử (khoản 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự). Quy định này góp phần đảm bảo được mong muốn của đương sự khi khởi kiện vụ án dân sự là mong vụ án nhanh chóng được đưa ra giải quyết, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thời hạn chuẩn bị xét xử

Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định:

1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:

a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP quy định:

“2. Trong trường hợp Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án, thì (thời hạn chuẩn bị xét xử được xác định từ ngày hoàn thành thủ tục phản tố, yêu cầu độc lập) ” 

Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng

Trong thực tiễn xét xử, những trường hợp nêu trên đều được áp dụng để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, có trường hợp Tòa án vẫn tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong một số trường hợp khác như khi đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng hoặc khi nhập/tách vụ án.

Trường hợp đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng:

Quan điểm một số Thẩm phán cho rằng sau khi đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng thì Tòa án phải tiến hành lại thủ tục kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, phải tiến hành thêm các bước thu thập chứng cứ nên phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra thông báo đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.

Theo quan điểm tác giả: Như đã viện dẫn các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tính thời hạn chuẩn bị xét xử, chưa có quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thông báo đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Mặt khác, theo điểm b khoản 2 Điều 204 BLTTDS có quy định “xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng kháclà thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Do đó việc Thẩm phán đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng và tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử là chưa phù hợp quy định của pháp luật.

Thực tế, đã có trường hợp Thẩm phán lạm dụng việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để quay lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Chẳng hạn như đưa mỗi lần một hoặc vài người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử lại đưa tiếp một người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nữa, thậm chí còn dựa vào đó để gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, cứ như vậy làm vụ án kéo dài thời gian giải quyết, gây bức xúc cho đương sự.

Trường hợp nhập hặc tách vụ án:

Theo Điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật; Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật. Tuy nhiên vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc tính thời hạn chuẩn bị xét xử như thế nào trong các trường hợp nhập hoặc tách vụ án dân sự.

Có quan điểm cho rằng, sau khi nhập hoặc tách vụ án thì Tòa án phải tiến hành lại thủ tục kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, phải tiến hành thêm các bước thu thập chứng cứ nên phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra quyết định nhập, tách vụ án.

Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, đối với trường hợp nhập vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án sau khi nhập được xác định là thời hạn của một trong các vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại dài nhất. Hay nói cách khác, Tòa án tiến hành nhập những vụ án còn thời hạn chuẩn bị xét xử ít hơn vào vụ án có thời hạn chuẩn bị xét xử dài nhất. Ví dụ: Trường hợp nhập vụ án A và vụ án B vào vụ án C. Tại thời điểm nhập vụ án, vụ án A còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 01 (một) tháng, vụ án B còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 02 (hai) tháng, vụ án C còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 03 (ba) tháng. Như vậy thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án C sau khi nhập là 03 (ba) tháng.

Đối với trường hợp tách vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại của vụ án đó cũng được xác định là thời hạn chuẩn bị xét xử của những vụ án được tách ra. Ví dụ: Trường hợp tách vụ án A thành vụ án A và B. Tại thời điểm tách, vụ án A còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 03 (ba) tháng thì thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B sau khi được tách ra từ vụ án A cũng được xác định là còn lại 03 (ba) tháng.

Tác giả cho rằng, do hiện nay chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc tính thời hạn chuẩn bị xét xử như thế nào trong các trường hợp nhập hoặc tách vụ án dân sự, do đó phải áp dụng Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP để tính thời hạn chuẩn bị xét xử; cụ thể như sau:

Đối với trường hợp nhập vụ án, tác giả thống nhất quan điểm là hai hay nhiều vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại khác nhau thì thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án sau khi nhập được xác định là thời hạn của một trong các vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại dài nhất. Do những vụ án trước khi nhập đều đã trải qua một thời gian chuẩn bị xét xử nhất định, đã được Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng, các biện pháp thu thập chứng cứ. Đồng thời, việc nhập vụ án nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án được thuận lợi hơn, đầy đủ và toàn diện hơn, không làm tăng tính phức tạp của vụ án. Nếu xác định lại thời hạn chuẩn bị xét xử từ ngày ra quyết định nhập vụ án thì có thể sẽ tạo ra tâm lý “bỏ bê” của Thẩm phán, để vụ án “nằm ì” đến khi có thời gian sẽ mang ra và nhập vụ án. Như vậy sẽ càng làm cho lượng án tồn không giảm mà còn tăng, kéo dài thời gian giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó không cần thiết phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra quyết định nhập vụ án, thời hạn của vụ nào còn dài nhất thì xác định đó là thời hạn của vụ án sau khi nhập.

Đối với trường hợp tách vụ án: Vụ án B sau khi được tách ra từ vụ án A thì Tòa án phải vào sổ thụ lý mới, ngày thụ lý vụ án B là ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Do đó thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B được tính từ ngày thụ lý, hay nói cách khác thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B được tính từ ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Đối với vụ án A, sau khi tách bớt một hay nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp, những thủ tục tố tụng hoặc những chứng cứ đã thu thập đúng quy định của pháp luật vẫn còn nguyên giá trị chứng minh, càng không có căn cứ để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Vì lẽ đó, thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án A trước khi tách cũng chính là thời hạn chuẩn bị xét xử của nó sau khi đã tách vụ án.

Do vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, cần có hướng dẫn của ngành cấp trên về cách tính thời hạn chuẩn bị xét xử khi Tòa án đưa thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng và khi nhập hoặc tách vụ án. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho Viện kiểm sát kiểm sát tốt việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật./.

Lê Thị Ngọc Lợi, VKSND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp