VKSND tỉnh Vĩnh Phúc kháng nghị phúc thẩm hai bản án kinh doanh thương mại
Ngày đăng : 09:12, 11/03/2020
Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại (ảnh minh họa) |
Đối với bản án kinh doanh thương mại của TAND huyện Yên Lạc, theo Kháng nghị của VKSND tỉnh Vĩnh Phúc, ngày 21/3/2018, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc II (gọi tắt là Ngân hàng) và anh Triệu Văn Tấn đã ký hợp đồng tín dụng số A04182003 vay số tiền 700.000.000 đồng. Mục đích để mua gà đẻ, thức ăn cho gà. Thời hạn vay 01 năm, lãi suất cho vay tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng là 10,5%, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn.
Hợp đồng thế chấp số 290320161 ngày 29/3/2016. Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích 3.140m2 đất rừng sản xuất, thửa đất số 03, tờ bản đồ Rừng Cuồng ở thôn Quan Nội, xã Tam Quan, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 14/6/2013 đứng tên anh Triệu Văn Tấn và tài sản gắn liền với đất là lán trại và chuồng trại.
Hợp đồng thế chấp số 290320162 ngày 29/3/2016. Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích 1440m2 đất (200m2 đất ở và 1240m2 đất vườn), thửa đất số 62.1, tờ bản đồ số 19 ở thôn Quan Nội, xã Tam Quan, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 18/9/2009 đứng tên anh Triệu Văn Tấn và tài sản gắn liền với đất là nhà cấp 4, công trình phụ và chuồng trại.
Quá trình vay vốn anh Tấn không thực hiện việc trả nợ theo ký kết tại hợp đồng tín dụng. Ngân hàng đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh Triệu Văn Tấn phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền là 853.544.487 đồng, trong đó nợ gốc là 700.000.000 đồng, nợ lãi là 153.544.487 đồng. Nếu anh Tấn không trả được nợ, đề nghị xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp để Ngân hàng thu hồi nợ.
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 17/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Buộc anh Triệu Văn Tấn phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tổng sô tiền là 853.544.487đ và phải tiếp tục trả lãi cho Ngân hàng kế từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 18/01/2020) đối với khoản nợ gốc là 700.000.000đ cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ theo mức lãi suất thoả thuận. Trường hợp anh Triệu Văn Tấn không thanh toán được toàn bộ số nợ trên thì toàn bộ tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp được xử lý để thu hồi nợ cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Bản án sơ thẩm vi phạm về việc thu thập chứng cứ và không đưa đầy đủ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.
Đối tài sản gắn liền với quyền sử dụng diện tích 1440m2 đất thể hiện tại bản Trích đo địa chính hiện trạng thửa đất ngày 21/11/2019 (BL88) có một phần nhà cấp 4 được xây dựng bằng tường gạch mái ngói có diện tích là 88m2 (ký hiệu là g2) có một phần xây dựng trên diện tích đất của ông Triệu Ngọc Bích (ông nội của anh Tấn) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ nguyên nhân anh Tấn xây dựng một phần nhà trên diện tích của ông Bích, diện tích là bao nhiêu. Tại biên bản xác minh ngày 30/9/2019 (BL92), Ủy ban nhân dân xã Tam Quan đã xác nhận ông Triệu Ngọc Bích đã chết nhưng Tòa án không xác minh hàng thừa kế thứ nhất của ông Bích gồm những ai để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ quan điểm của họ về việc anh Tấn xây nhà trên một phần đất của ông Bích như thế nào.
Đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích 3.140m2 đất rừng sản xuất theo hợp đồng thế chấp số 290320161 ngày 29/3/2016. Tại trích lục bản đồ địa chính ngày 17/9/2019 (BL83), thì diện tích thực tế 4227,3m2 tăng 1.087,3m2 và về sơ đồ thửa đất thể hiện trong giấy chứng nhận QSD đất cấp ngày 14/6/2013 (BL32) khác hoàn toàn sơ đồ thửa đất thể hiện trong Trích lục bản đồ địa chính. Tại biên bản xác minh ngày 30/9/2019 (BL 90,91,92), Ủy ban nhân dân xã Tam Quan giải thích về sự thay đổi diện tích như vậy có thể do trước đây đo thủ công nên không chính xác, anh Tấn không lấn chiếm, nhận chuyển nhượng hoặc được ai khác tặng cho.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 17/9/2019 Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ xác định thửa đất lâm nghiệp này có diện tích đúng bằng diện tích thể hiện trong giấy chứng nhận QSD đất là 3.140m2 như trong hợp đồng thế chấp, không phải là 4227,3m2 thể hiện trong trích lục bản đồ địa chính lập ngày 17/9/2019 kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ (BL 85). Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ nguyên nhân có diện tích tăng thêm, tại sao hiện trạng thửa đất có sự thay đổi so với so đồ thửa đất được cấp giấy chứng nhận? diện tích thể hiện trong biên bản thẩm định tại chỗ tại sao khác với số liệu thể hiện trong Trích lục bản đồ địa chính do UBND xã Tam Quan cung cấp? Tòa án sơ thẩm cũng chưa lấy lời khai của anh Tấn, chị Phú để làm rõ những nội dung trên.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa đầy đủ những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, chưa làm rõ các vấn đề như nêu trên nhưng đã quyết định cho Ngân hàng được phát mại tài sản thế chấp nếu anh Tấn không trả được nợ là chưa có cơ sở vững chắc, vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 68 và Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với bản án kinh doanh của TAND huyện Yên Lạc có vi phạm trong việc xem xét, giải quyết không hết các vấn đề của vụ án.
Theo nội dung bản án, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng) và anh Đường Vinh Lợi, chị Nguyễn Thị Phương Thảo ký Hợp đồng tín dụng số VPC20150450/HĐTD, theo đó anh Lợi, chị Thảo vay Ngân hàng số tiền 500.000.000 đồng, mục đích mua ô tô phục vụ sản xuất kinh doanh, thời hạn vay 84 tháng. Tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp là 01 xe ô tô con, 05 chỗ ngồi mang biển kiểm soát 88A-093.74. Quá trình thực hiện hợp đồng nêu trên, anh Lợi, chị Thảo đã trả được số nợ tiền gốc 255.936.000 đồng (trong đó số tiền gốc trong hạn 113.956.934 đồng, số tiền gốc quá hạn 141.979.066 đồng) và số tiền lãi 168.610.127đồng.
Ngày 22/6/2015, Ngân hàng và anh Đường Vinh Lợi, chị Nguyễn Thị Phương Thảo đã ký kết Hợp đồng cấp hạn mức tín dụng số VPC20150426/HĐHMTD, giá trị hạn mức tín dụng 870.000.000 đồng. Ngày 26/12/2016, Ngân hàng và anh Lợi, chị Thảo đã ký kết Phụ lục hợp đồng cấp hạn mức tín dụng số VPC20150426/HĐHMTD/PL01, giá trị hạn mức tín dụng 1.000.000.000 đồng . Tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số VPC2015191/HĐTC ngày 22/6/2015 là thửa đất số 275, tờ bản đồ số 01, diện tích 260m2, mục đích sử dụng: thổ cư, thời hạn sử dụng: lâu dài, tại địa chỉ: Đông Lỗ 1, Trung Nguyên, Vĩnh Lạc, Vĩnh Phú đứng tên anh Đường Vinh Lợi.
Quá trình thực hiện hợp đồng, anh Lợi, chị Thảo đã trả được số nợ tiền gốc 17.023.014 đồng (trong đó số tiền gốc trong hạn là 0 đồng, số tiền gốc quá hạn 17.023.014 đồng) và số tiền lãi 63.806.717 đồng (trong đó tiền lãi trong hạn 63.654.433đồng, lãi quá hạn là 0 đồng, lãi phạt 152.284 đồng). Tính đến hết ngày 14/01/2020, anh Lợi, chị Thảo còn nợ số tiền gốc 832.976.986đồng và số nợ tiền lãi 222.123.281 đồng.
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam khởi kiện yêu cầu anh Lợi, chị Thảo phải thanh toán tổng số tiền còn nợ là 1.335.569.263 đồng (trong đó số nợ tiền gốc 1.077.040.986 đồng và số nợ tiền lãi 258.528.277 đồng) và tiền lãi phát sinh trên dư nợ gốc theo hai hợp đồng tín dụng kể từ ngày 15/01/2020
Nguồn gốc diện tích đất và ngôi nhà ba tầng do vợ chồng ông, bà cho riêng anh Lợi từ trước khi anh Lợi kết hôn với chị Thảo. Chiếc xe ô tô là tài sản chung của anh Lợi, chị Thảo. Trên diện tích đất thế chấp có một phần ngôi nhà ba gian mà ông bà đang ở do ông, bà xây từ năm 2000. Nay Ngân hàng yêu cầu anh Lợi, chị Thảo phải trả toàn bộ khoản nợ Ngân hàng, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp liên quan đến phần ngôi nhà ba gian vợ chồng ông bà đang ở thì ông, bà không đồng ý.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 05/9/2019, Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, xác định: Trên thửa đất hiện có 01 ngôi nhà cấp IV 03 tầng, 01 sân gạch lát gạch đỏ, 01 đoạn tường bao loan xây gạch chỉ, trên phần đất này có một phần nhà của ông Đường Vinh Lạc, bà Nguyễn Thị Nhuỗm diện tích 28m2, toàn bộ tài sản đều có trước thời điểm thế chấp.
Tòa án cấp sơ đã áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết hợp đồng thế chấp tài sản số VPC2015191/HĐTC ngày 22/6/2015 và quyết định cho Ngân hàng được phát mại toàn bộ tài sản trên đất, trong đó có 28m2 diện tích ngôi nhà của ông Lạc, bà Nhuỗm là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm chỉ nhận định khi tài sản gắn liền với đất được chuyển giao thì những người có tài sản trên đất sẽ được nhận tiền bán tài sản trên đất khi bị xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp mà không quyết định cho ông Lạc, bà Nhuỗm được quyền ưu tiên mua lại tài sản nếu có nhu cầu và nếu ông Lạc, bà Nhuỗm không mua thì khi phát mại tài sản bảo đảm phải thanh toán trả cho ông Lạc, bà Nhuỗm giá trị bằng tiền tại thời điểm phát mại tài sản của phần nhà có diện tích 28m2 là trái quy định tại khoản 2 Điều 325 BLDS và Án lệ số 11/2017/AL của Tòa án nhân dân tối cao.
Việc Tòa án không quyết định giải quyết hết các vấn đề của vụ án là không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của ông Lạc, bà Nhuỗm, gây khó khăn cho công tác thi hành án và vi phạm Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự.
Điều luật quy định
“2. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định và phần quyết định của Tòa án, cụ thể như sau:
……
c) Trong phần quyết định phải ghi rõ các căn cứ pháp luật, quyết định của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án”.
Vì những vi phạm của hai bản án như đã phân tích như trên, VKS tỉnh vĩnh Phúc quyết định kháng nghị đối với hai Bản án kinh doanh thương mại, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm của TAND huyện Yên Lạc và xét xử phúc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm đối với bản án của TAND huyện Tam Đảo.