Đồng Nai: Vụ án có dấu hiệu hình sự gần 30 năm vẫn bế tắc
Ngày đăng : 16:46, 05/03/2020
![]() |
Khu đất hiện đang có tranh chấp |
Có dấu hiệu tội “lừa đảo…”
Phản ánh đến các cơ quan báo chí, bà Mạc Thị Tuyết (ngụ phường Long Bình Tân, TP Biên Hòa) cho biết, vào ngày 22/11/1993, vợ chồng bà Mạc Thị Tuyết và ông Trần Văn Tý có mua của ông Lê Thanh Hóa khu đất có diện tích chiều ngang 15m, chiều dài 50m thuộc thửa đất 17,18, 21 Tờ bản đồ 67 tọa lạc tại ấp 5, khóm 1 xã Hòa Hưng, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (nay là số nhà 468 tổ 24 khu phố 3, phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa) với giá 14 chỉ vàng (9.5 tuổi) có xác nhận của UBND xã Hòa Hưng, huyện Long Thành (cũ) tỉnh Đồng Nai (kèm theo giấy sang nhượng đất đề ngày 22/11/1993 do ông Hóa viết được chủ tịch UBND xã xác nhận).
Đến tháng 3/1994, chồng bà Tuyết là ông Trần Văn Tý lâm bệnh nặng mất, bà Tuyết xuất gia đi tu nên không để ý phần đất nói trên. Đến khoảng tháng 5/1994, ông Lê Thanh Hoá đập phá toàn bộ 11 trụ cọc bê tông cột mốc ranh giới, tự ý đào ao, trồng cây trên phần đất mà ông Hóa đã sang bán cho vợ chồng bà Tuyết mà không được sự đồng ý của bà Tuyết.
Sau khi phát hiện sự việc, bà Tuyết đã đến gặp ông Hóa trao đổi và báo cho UBND xã Hòa Hưng, nhưng không được UBND xã Hòa Hưng giải quyết. Tiếp đó, ngày 26/5/1994, bà Tuyết làm đơn gửi Chủ tịch UBND xã Hòa Hưng và Công an xã Hòa Hưng nhưng cũng không được giải quyết.
Ngày 9/3/1997, bà Tuyết tiếp tục làm đơn gửi đến Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai. Ngày 13/3/1997, UBND tỉnh Đồng Nai có văn bản số 361D/UTB chuyển đơn của bà Tuyết yêu cầu chính quyền cơ sở giải quyết, nhưng sự việc vẫn không có chuyển biến.
![]() |
Đơn phản ánh của bà Mạc Thị Tuyết |
Sau đó, đến tháng 6/2013, bà Mạc Thị Tuyết tiếp tục làm đơn gửi Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai tố cáo ông Lê Thanh Hóa đã có hành vi hủy hoại và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, số tiền 01 lô đất ở thời điểm đó trị giá khoảng 1,7 tỷ đồng. Hồ sơ vụ việc cho thấy, việc mua bán sang nhượng đất giữa ông Lê Thanh Hóa với ông Trần Văn Tý (chồng của bà Mạc Thị Tuyết) vào ngày 22/11/1993 là có căn cứ. Do đó, bà Mạc Thị Tuyết (vợ ông Tý ) đứng đơn tố cáo bị ông Hóa chiếm đoạt tài sản là đúng pháp luật.
Đến ngày 9/5/2014, có kết quả “Xác minh đơn tố giác tội phạm” gửi bà Tuyết bằng văn bản số 228/BC – PC45 ngày 09/05/2014. Tại văn bản này, cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai khẳng định, việc ông Hóa đưa ra tờ giấy viết tay đề ngày 16/5/1995 cho rằng, ông Trần Văn Dũng là em ruột của ông Tý bán lô đất nói trên cho ông Hóa với giá 12 chỉ vàng (9.5 tuổi) và ông Dũng đã ký tên vào tờ giấy sang nhượng đất là không có cơ sở vì bản thân ông Dũng không phải là chủ sở hữu lô đất nói trên. Riêng ông Trần Văn Dũng cũng khẳng định, ông không hề ký tên bán đất cho ông Lê Thanh Hóa.
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai cũng khẳng định, ông Lê Thanh Hóa lợi dụng việc ông Tý chết, bà Tuyết đi tu, không hiểu biết pháp luật, muốn chiếm đoạt tài sản của bà Tuyết. Lợi dụng mối quan hệ của ông Dũng là em ông Tý nên tự động viết giấy mua đất rồi giả chữ ký của ông Dũng để chiếm đoạt tài sản của bà Tuyết, sau đó bán đất cho người khác.
“Hành vi trên của ông Lê Thanh Hóa có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam. Tuy nhiên, căn cứ khoản 2, điểm C, khoản 3 điều 23 Bộ luật hình sự, vụ việc trên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”, văn bản số 228/BC – PC45 khẳng định.
![]() |
Kết quả xác minh đơn tố giác tội phạm của CQĐT |
Tuy nhiên, đến ngày 15/05/2014, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 291/QĐ-PC45, cho rằng nội dung đơn của bà Mạc Thị Tuyết tố cáo ông Lê Thanh Hóa do đã hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chờ đợi công lý
Trước đó, tháng 7/2019, trao đổi với chúng tôi (PV), thẩm phán Lê Thị Ký, người thụ lý giải quyết vụ án cho biết nguyên nhân chậm trễ là do đương sự ở xa và khó khăn trong quá trình đo đạc, do đương sự chỉ ranh giới không chính xác; do vậy đến nay, vẫn chưa thể xử lý dứt điểm vụ việc.
Không chấp nhận lý do đó, bà Mạc Thị Tuyết đã làm đơn tố cáo gửi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai những cá nhân liên quan đến quá trình xử lý vụ án. Trong đó có thẩm phán Lê Thị Ký, người thụ lý vụ án và ông Lê Văn Thăng, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.
Ngày 06/02/2020, VKSND tỉnh Đồng Nai đã chuyển đơn của bà Tuyết đến Chánh án tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 19/2, trao đổi với PV, ông Phương - Chánh văn phòng tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai cho biết, đang chờ lãnh đạo tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử lý, giải quyết theo thẩm quyền, khi nào có kết quả sẽ thông tin tới báo chí.
Ngoài ra, bà Mạc Thị Tuyết cũng làm đơn tố cáo ông Nguyễn Thanh Sơn, người tiến hành điều tra vụ việc và ra quyết định không khởi tố vụ án vì cho rằng hết thời hiệu. Ngày 18/12/2019, Thanh tra công an tỉnh Đồng Nai đã chuyển đơn của bà Tuyết đến Thủ trưởng cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai để xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về đơn tố cáo cá nhân ông Bùi Thanh Sơn, ngày 19/2/2020, trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Thọ, Trưởng phòng Tham mưu Tổng hợp Công an tỉnh Đồng Nai cho biết, vụ việc đang được CQCSĐT giải quyết theo thẩm quyền.
Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, luật gia Mạc Văn Hiển (Hội luật gia huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) cho biết: Căn cứ hồ sơ vụ án nói trên của bà Mạc Thị Tuyết. Ngày 22/5/1994 bà Tuyết làm đơn gửi Chủ tịch UBND xã Hòa Hưng và Công An xã Hòa Hưng nhưng không ai giải quyết, đến ngày 09/3/1997 bà Tuyết tiếp tục làm đơn gửi đến Chủ tịch UBND Tỉnh Đồng Nai, được Chánh văn phòng UBND tỉnh có văn bản số 361D/UBT ngày 13/3/1997 trả lời đơn, thư; Cơ quan CSĐT – Công An tỉnh Đồng Nai (Phòng PC 45) ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 291/QĐ-PC45 ngày 15/5/2014 do đã hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự là chưa đúng quy định của pháp luật vì: Căn cứ Bộ luật hình sự số 17-LCT/HD9NN7 ngày 27/6/1985 của Ngước CHXHCN Việt Nam được quy định tại Điểm C, Khoản 1 Điều 45 về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 15 năm (mười lăm năm) đối với các loại tội phạm nghiêm trọng. Do đó, CQĐT cần có trách nhiệm xác định giá trị tài sản lừa đảo là bao nhiêu để có cơ sở xác định thời hiệu.