Xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm

Ngày đăng : 15:24, 31/01/2020

(Kiemsat.vn) - Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu vào phân tích các dấu hiệu cơ bản của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244); từ đó xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại khi phạm tội này một cách chính xác và hiệu quả.

Những thay đổi quan trọng về chính sách hình sự trong BLHS 2015

Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS 2015) lần đầu tiên ghi nhận chủ thể của tội phạm không chỉ là thể nhân (cá nhân) mà còn bao gồm cả pháp nhân thương mại. Đây là nội dung thay đổi quan trọng trong chính sách hình sự, khẳng định quan điểm của Nhà nước ta trong việc xử lý nghiêm minh các pháp nhân thương mại vi phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Tuy nhiên, BLHS 2015 chỉ coi pháp nhân thương mại mới là chủ thể của tội phạm chứ không phải bất kỳ pháp nhân nào cũng là chủ thể của tội phạm.[1] Bởi lẽ, căn cứ vào tình hình thực tiễn hiện nay thì việc bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại vào thời điểm này là cần thiết và đúng lúc vì: (1) tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thương mại thực hiện diễn ra phức tạp, ngày càng nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống an lành của người dân và gây mất trật tự, an toàn xã hội; (2) hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, mặc dù đã có chế tài xử phạt hành chính, quy định của pháp luật dân sự, kinh tế nhưng không hiệu quả; cơ chế bảo vệ của pháp luật đối với những người yếu thế trong xã hội khi xảy ra trường hợp pháp nhân thương mại vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với họ chưa thực sự có hiệu quả. Do đó, trách nhiệm xử lý pháp nhân thương mại theo quy định của pháp luật hình sự phải thuộc về Nhà nước, chủ thể có đầy đủ sức mạnh, nguồn lực và thẩm quyền để thực hiện; (3) việc quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại là xu thế chung trên thế giới; (4) để đáp ứng yêu cầu của một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên[2]; (5) trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, việc quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại cũng là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong xử lý pháp nhân thương mại  khi có vi phạm pháp luật xảy ra, đồng thời, tránh việc bỏ lọt tội phạm; (6) với việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại sẽ đưa ra cơ sở pháp lý để quy định trình tự, thủ tục tố tụng hình sự chặt chẽ với pháp nhân thương mại, góp phần bảo đảm khách quan, hiệu quả hơn trong việc xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân thương mại so với các chế tài xử lý hiện hành. Đồng thời, tăng cường bảo vệ quyền lợi của người dân khi thực hiện khiếu nại, khởi kiện; (7) tạo cơ sở pháp lý để xử lý những pháp nhân thương mại vì lợi nhuận mà bất chấp pháp luật của Nhà nước, xem thường tính mạng, sức khỏe của người dân, lũng đoạn thị trường, phá vỡ trật tự quản lý của nền kinh tế đất nước cũng như để can thiệp vào hoạt động của các nhóm tội phạm có tổ chức tồn tại dưới hình thức hợp pháp là các pháp nhân thương mại, như các nhóm tội phạm hoạt động buôn lậu, rửa tiền, buôn bán người, buôn bán trẻ em, ma túy, buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm … BLHS năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới do pháp nhân thương mại gây ra, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, môi trường, phù hợp với xu hướng chung của quốc tế. Việc quy định trách nhiệm hình sự chỉ đối với pháp nhân thương mại đã được Quốc hội khóa XIII thảo luận kỹ, xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền và đã lấy ý kiến nhân dân trước khi quyết định. Có thể đánh giá một cách tổng quát là việc mới chỉ quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm chứ không phải là tất cả các pháp nhân nói chung chủ yếu dựa trên mục đích hoạt động chủ yếu của chủ thể này là mục đích sinh lợi. Do đó, hình phạt chủ yếu đối với pháp nhân thương mại phạm tội cũng là hình phạt tiền.

Quy định này không chỉ bảo đảm sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật mà còn nhằm thực thi các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên[3], bảo đảm công bằng giữa pháp nhân thương mại Việt Nam ở nước ngoài và pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam.

Điều 76 BLHS 2015 quy định về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại như sau: “Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật này.”

Theo đó thì pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 33 tội danh là: tội buôn lậu (Điều 188), tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189), tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190), tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191), sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195), tội đầu cơ (Điều 196), tội trốn thuế (Điều 200), tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203), tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (Điều 209), tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 210), tội thao túng thị trường chứng khoán (Điều 211), tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213), tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216), tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217), tội âm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225), tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226), tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 227), tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản (Điều 232), tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234), tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235), tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237), tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238), tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239), tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản (Điều 242), tội hủy hoại rừng (Điều 243), vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244), tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 245), tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246), tội tài trợ khủng bố (Điều 300) và tội rửa tiền (Điều 324). Các tội phạm này cũng tương đồng với lĩnh vực hoạt động chủ yếu của pháp nhân thương mại và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về tính phổ biến và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Điểm chung trong 33 tội danh áp dụng đối với pháp nhân thương mại là quy định song song giữa trách nhiệm hình sự của thể nhân với trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Theo đó, tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều luật quy định trách nhiệm hình sự của cá nhân phạm tội khi có một trong các hành vi vi phạm mà BLHS quy định. Riêng khoản 5 Điều luật quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, dựa trên những dấu hiệu pháp lý hành vi và hậu quả được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều luật.

Đối với nhóm các tội phạm về môi trường (quy định tại Chương XIX gồm 12 điều, từ Điều 235 đến Điều 246 BLHS 2015) thì BLHS 2015 đã bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với 9 tội trên tổng số 12 tội. Trong đó có tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244).

Các dấu hiệu cơ bản của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm

So với Điều 190 BLHS năm 1999 quy định về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên thì Điều 244 BLHS 2015 quy định về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản quy định theo hướng chi tiết hơn, rõ ràng hơn trên cơ sở lượng hóa cụ thể các tình tiết định khung, tạo thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử được chính xác hơn. Các tình tiết định khung được lượng hóa, như: Số lượng cá thể hoặc sản phẩm của loài động vật; bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loài của động vật; giá trị tang vật vi phạm,…

Nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan thì thấy, các nhà làm luật khi xây dựng BLHS 2015 đã bổ sung trên cơ sở lượng hóa từ các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này, đó là: Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm (Nghị định số 32/2006/NĐ-CP); Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT-BNN&PTNT-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/3/2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Bộ Tư pháp – Bộ Công an – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản (Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT) và Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Nghị định 160/2006/NĐ-CP). Mới đây nhất, ngày 22 tháng 01 năm 2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2019/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp và ngày 05/11/2018 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm của Bộ luật Hình sự (Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP).

Điều 244 BLHS 2015[4] quy định về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm gồm 05 khoản, trong đó khoản 1 có cấu thành cơ bản, khoản 2, 3, 4 là khoản có cấu thành tăng nặng và khoản 5 quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

Phân tích các yếu tố cấu thành cơ bản của tội phạm này gồm:

– Về khách thể của tội phạm:

Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác cho đời sống xã hội.

Đối tượng tác động của tội phạm này là các loại động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; động vật nguy cấp, quý hiếm thuộc quy định về bảo vệ động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp.

– Mặt khách quan của tội phạm:

Tội phạm này được xác định khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi sau đây:

+ Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ;

+ Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật quy định tại điểm a khoản này;

Ngà voi có khối lượng từ 02 kilôgam đến dưới 20 kilôgam; sừng tê giác có khối lượng từ 50 gam đến dưới 01 kilôgam;

+ Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp mà không thuộc loài quy định tại điểm a khoản này với số lượng từ 03 cá thể đến 07 cá thể lớp thú, từ 07 cá thể đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10 cá thể đến 15 cá thể động vật lớp khác;

+ Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống của từ 03 cá thể đến 07 cá thể lớp thú, từ 07 cá thể đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10 cá thể đến 15 cá thể động vật lớp khác quy định tại điểm d khoản này;

+ Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoặc tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật có số lượng dưới mức quy định tại các điểm c, d và đ khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

– Chủ thể của tội phạm:

Theo quy định tại Điều 244 BLHS 2015 thì chủ thể của tội phạm này gồm:

Thể nhân là cá nhân đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại.

– Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Điều này có nghĩa là, nếu vì một lý do nào đó mà họ hoàn toàn không biết hoặc không buộc họ phải biết đó là động vật hoang dã, quý, hiếm thì không bị coi là cố ý và không bị coi là phạm tội này. Nếu không biết hoặc không buộc phải biết thì tùy trường hợp cụ thể, họ có thể bị xử phạt hành chính.

Căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm

Hiện nay, với việc ra đời của Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP việc xác định thế nào là động vật nguy cấp, quý, hiếm hay việc xác định một số tình tiết định tội cũng như một số tình tiết định khung hình phạt đã được hướng dẫn khá cụ thể, rõ ràng.

Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về việc xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội này.

Khoản 5 Điều 244 BLHS 2015 chỉ quy định các hình phạt tương ứng với các khoản khi pháp nhân thương mại phạm tội.

Trong thực tiễn, việc thực hiện các hành vi nêu tại khoản 1 Điều 244 BLHS 2015 được xác định không chỉ do cá nhân thực hiện mà còn do các tổ chức, pháp nhân thương mại thực hiện. Tuy nhiên, BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) lại chưa coi pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm, nên không thể áp dụng trách nhiệm hình sự đối với chủ thể này. Điều này tạo ra sự bất bình đẳng trong việc xử lý hành vi vi phạm, đồng thời bỏ lọt tội phạm. Do đó, việc bổ sung chủ thể này vào khoản 5 Điều 244 BLHS 2015 là một sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý.

Muốn xác định pháp nhân thương mại có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này hay không, ta phải căn cứ vào Điều 75 BLHS 2015[5], theo đó, đây được xem là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xem xét, đánh giá để áp dụng chế tài hình sự đối với pháp nhân thương mại. Bởi lẽ, nếu không được xem xét một cách cụ thể và đầy đủ các điều kiện nói trên thì có thể dẫn đến trường hợp kết án oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của pháp nhân thương mại cũng như các cá nhân có liên quan.

Khoản 2 Điều 75 BLHS 2015 cũng quy định rõ, việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Với quy định này đảm bảo việc đấu tranh phòng chống tội phạm một cách triệt để để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Nghĩa là, khi chứng minh được đầy đủ các dấu hiệu phạm tội của pháp nhân thương mại thì cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại đó. Đồng thời, nếu chứng minh được người thực hiện hành vi phạm tội cũng thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm đối với tội danh đó thì truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cả cá nhân đó mà không có trường hợp loại trừ. Đây là một điểm mà các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải hết sức chú ý. Trường hợp này khác hoàn toàn với trường hợp áp dụng nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một hành vi phạm tội, bởi đây là hai chủ thể độc lập. Do vậy, trong quá trình áp dụng, giải quyết vụ án hình sự về tội có quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, trước hết, cần làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội và trách nhiệm của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì phải xử lý hình sự đồng thời cả cá nhân và pháp nhân về tội phạm mà họ đã thực hiện. Trường hợp phát hiện tội phạm xảy ra, mà ban đầu mới xác định được trách nhiệm của pháp nhân, thì khởi tố vụ án, khởi tố pháp nhân phạm tội, sau đó tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý hình sự cá nhân liên quan – người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với cá nhân, pháp nhân được toàn diện, triệt để, tránh bỏ lọt tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội.

Đồng thời, khi xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại cũng cần lưu ý quy định tại Điều 74 BLHS 2015 thì: “Pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.”

Vì vậy, khi áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, thì phải tuân thủ các quy định của Chương XI. Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội và những quy định khác thuộc Phần thứ nhất BLHS 2015. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định tại Chương XI và Phần những quy định chung của BLHS 2015, thì ưu tiên áp dụng các quy định tại Chương XI này.

Về hình phạt: Xem xét quy định tại khoản 5 Điều 244 BLHS 2015 thì thấy, hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm chủ yếu là hình phạt tiền. Bên cạnh đó, còn có thể áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

Pháp nhân thương mại phạm tội này cũng còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, đó là: bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Tác giả cho rằng, việc quy định các mức hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm quy định tại Điều 244 BLHS 2015 là tương đối phù hợp. Theo khoa học Luật hình sự thì pháp luật ra đời để điều tiết các quan hệ xã hội theo một trật tự chung theo mục đích đặt ra của Nhà nước, do đó, khi xây dựng pháp luật đòi hỏi các quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với đối tượng điều chỉnh thì mới mang lại hiệu quả như mong muốn. Với các pháp nhân thương mại, như phần trên đã phân tích thì đặc điểm đặc trưng của chủ thể này là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, kể cả việc thực hiện các hành vi phạm tội quy định tại Điều 244 BLHS 2015 cũng là nhằm mục đích sinh lời. Do đó, chế tài hình sự áp dụng đối với chủ thể này chủ yếu là hình phạt tiền là phù hợp, đảm bảo hiệu lực và hiệu quả cao trong thực tiễn áp dụng.

Việc  bảo vệ các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm không chỉ là nhiệm vụ, là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho một tổ chức hay một quốc gia nào mà là nhiệm vụ của toàn thế giới. Bảo vệ các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm cũng chính là bảo vệ môi môi trường sống cân bằng của loài người nói chung. Do đó, để việc đấu tranh phòng, chống các tội phạm liên quan đến động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm một cách có hiệu quả thì đòi hỏi phải có các biện pháp, các chế tài phù hợp. Tại Điều 244 BLHS 2015, lần đầu tiên các nhà làm luật xác định bên cạnh thể nhân thì pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Với sự điều chỉnh kịp thời nói trên của BLHS 2015 đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra, giúp việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này được thuận lợi, triệt để, tránh bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, đây là vấn đề khá mới mẻ, hiện nay cũng chưa có báo cáo tổng kết của các cơ quan có thẩm quyền về việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với chủ thể này, do đó bài viết đưa ra những nhận định, đánh giá cũng như phân tích các đặc điểm cơ bản của chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại khi phạm tội quy định tại Điều 244 BLHS 2015. Khi áp dụng vào thực tiễn cần lưu ý áp dụng thống nhất các quy định trong phần chung BLHS 2015 đối với pháp nhân thương mại phạm tội và các quy định riêng trong phần các tội phạm cụ thể./.

[1] Khái niệm pháp nhân thương mại lần đầu tiên được quy định tại Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó, tại khoản 1 Điều luật này quy định: “1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.” Như vậy, về cơ bản thì pháp nhân thương mại trước hết phải là một tổ chức và tổ chức này phải được công nhận là pháp nhân khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể:

– Được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan;

– Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự 2015;

– Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;

– Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

[2]Theo thống kê của Chính phủ, có 116 quốc gia trong đó có 6 nước trong khối ASEAN có quy định về TNHS pháp nhân. Các công ước có liên quan đến xử lý pháp nhân gồm: Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước ASEAN về chống khủng bố và các Công ước về chống khủng bố khác mà Việt Nam đã tham gia…Luật phòng, chống khủng bố, Luật phòng, chống rửa tiền cũng đã quy định hành vi khủng bố, hành vi rửa tiền của cá nhân và pháp nhân.

[3] Theo thống kê của Chính phủ, có 116 quốc gia trong đó có 6 nước trong khối ASEAN có quy định về TNHS pháp nhân. Các công ước có liên quan đến xử lý pháp nhân gồm: Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước ASEAN về chống khủng bố và các Công ước về chống khủng bố khác mà Việt Nam đã tham gia…Luật phòng, chống khủng bố, Luật phòng, chống rửa tiền cũng đã quy định hành vi khủng bố, hành vi rửa tiền của cá nhân và pháp nhân.

[4] Điều 244. Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm

Người nào vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; động vật nguy cấp, quý hiếm thuộc Nhóm IB hoặc thuộc Phụ lục I của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ;

b) Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật quy định tại điểm a khoản này; ngà voi có khối lượng từ 02 kilôgam đến dưới 20 kilôgam; sừng tê giác có khối lượng từ 0,05 kilôgam đến dưới 01 kilôgam;

c) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật nguy cấp, quý hiếm Nhóm IB hoặc thuộc Phụ lục I của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp mà không thuộc loài quy định tại điểm a khoản này với số lượng từ 03 đến 07 cá thể lớp thú, từ 07 đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10 đến 15 cá thể động vật các lớp khác;

d) Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép từ 03 đến 07 bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại của động vật lớp thú, của 07 đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc 10 đến 15 cá thể động vật các lớp khác thuộc loài động vật quy định tại điểm c khoản này;

đ) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoặc tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại của các động vật có số lượng dưới mức tối thiểu của các điểm b, c và d khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

c) Sử dụng công cụ hoặc phương tiện săn bắt bị cấm;

d) Săn bắt trong khu vực bị cấm hoặc vào thời gian bị cấm;

đ) Buôn bán, vận chuyển qua biên giới;

e) Số lượng động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc số lượng bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại của từ 07 đến 10 cá thể lớp thú, từ 07 đến 10 cá thể lớp chim, lớp bò sát hoặc từ 10 đến 15 cá thể lớp khác thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ;

g) Số lượng động vật nguy cấp, quý hiếm quy định tại điểm c khoản 1 Điều này hoặc số lượng bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại của từ 08 đến 11 cá thể thuộc lớp thú, từ 11 đến 15 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 16 đến 20 cá thể động vật thuộc các lớp khác;

h) Từ 01 đến 02 cá thể voi, tê giác hoặc bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại; từ 03 đến 05 cá thể gấu, hổ hoặc bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại; ngà voi có khối lượng từ 20 kilôgam đến dưới 90 kilôgam; sừng tê giác có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 09 kilôgam;

i) Tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Số lượng động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc số lượng bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại của từ 08 cá thể lớp thú trở lên, 11 cá thể lớp chim, lớp bò sát trở lên hoặc 16 cá thể lớp khác trở lên thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ;

b) Số lượng động vật nguy cấp, quý hiếm quy định tại điểm c khoản 1 Điều này hoặc số lượng bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại của 12 cá thể lớp thú trở lên, 16 cá thể lớp chim, bò sát trở lên hoặc 21 cá thể động vật trở lên thuộc các lớp khác;

c) Từ 03 cá thể voi, tê giác hoặc bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại trở lên; 06 cá thể gấu, hổ hoặc bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại trở lên; ngà voi có khối lượng 90 kilôgam trở lên; sừng tê giác có khối lượng 09 kilôgam trở lên.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 5.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 10.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

[5] “1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân
thương mại;

c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.

Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.”

 

Ths. Phạm Quỳnh Nga (tapchitoaan.vn)