Bàn về vấn đề kê biên, xử lý phần tài sản còn lại chưa xác định trong khối tài sản chung để thi hành án
Ngày đăng : 01:21, 16/01/2020
Như chúng ta đã biết, để thực hiện được việc áp dụng biện pháp bảo đảm, thực hiện kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án thì việc xác định, phân chia phần quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án là công việc hết sức quan trọng. Cơ sở pháp lý được quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự (THADS) sửa đổi, bổ sung năm 2014; Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 và một số luật có liên quan như: Luật Đất đai năm 2013, Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
Đối với tài sản trong khối tài sản chung: Khoản 1 Điều 74 Luật THADS quy định: Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trường hợp này, Chấp hành viên phải thực hiện theo thủ tục trên, Luật không cho phép Chấp hành viên tự phân chia và tự xác định phần quyền sở hữu, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, mà bắt buộc Chấp hành viên phải yêu cầu Tòa án xác định.
Trường hợp đã xác định được phần quyền sở hữu của các chủ sở hữu: Tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án; tài sản chung không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc sở hữu của họ. Tuy nhiên, trong quá trình bán đấu giá tài sản thì Chấp hành viên phải cần lưu ý đến quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo quy định tại Khoản 3 Điều 74 Luật THADS (sửa đổi, bổ sung) năm 2014.
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản liên quan đã quy định rõ, chi tiết việc xác định, phân chia phần quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung; tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng thì vẫn có nhiều quan điểm xử lý khác nhau, dẫn đến nhiều trường hợp gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Chúng ta cùng xem xét một vụ việc cụ thể:
Theo quyết định dân sự sơ thẩm số: 97/2010/QĐST-DS ngày 28/05/2010 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y: “Bà Nguyễn Thị Đ phải bồi thường cho 03 người được thi hành án với số tiền 262.000.000 đồng và tiền án phí 6.550.000 đồng”.
Qua xác minh về điều kiện, khả năng thi hành án của bà Nguyễn Thị Đ thể hiện: Bà Nguyễn Thị Đ không có tài sản riêng để đảm bảo thi hành án, bà có tài sản chung hộ gia đình với ông Trần Văn L (chồng bà Đ), chị Trần Thị Bích C và anh Trần Minh L (con bà Đ), tổng cộng hộ gia đình có 04 người. Tài sản gồm: quyền sử dụng đất diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20 (100m2 – ONT, 21,3m2 – CLN) và căn nhà cấp 4 gắn liền với đất, tọa lạc tại: số 446, đường THĐ, phường 1, thành phố X, tỉnh Y. Trong đó, quyền sử dụng đất đã được Ủy ban nhân dân thành phố X cấp cho hộ ông Trần Văn L vào ngày 06/3/2003; căn nhà cấp 4 gắn liền với đất chưa được cấp quyền sở hữu cho ai.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/ 7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X ban hành Thông báo kết quả xác định quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án số 159/TB-CCTHA ngày 07/3/2016. Theo đó, Chi cục Thi hành án dân sự xác định: bà Nguyễn Thị Đ được hưởng ¼ (một phần tư) giá trị tài sản chung hộ ông Trần Văn L gồm quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản căn nhà cấp 4 gắn liền với đất. Ông Trần Văn L không đồng tình với nội dung xác định nêu trên của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố nên ông làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố X xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản là của riêng ông bởi: Tài sản này do ông nhận chuyển nhượng trước khi bà Đ về sống chung như vợ chồng.
Ngày 11/10/2017, Tòa án nhân dân thành phố X đã thụ lý việc dân sự về việc “Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản” theo yêu cầu của ông Trần Văn L. Tại Quyết định dân sự sơ thẩm ngày 13/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X xác định ông Trần Văn L được ¼ diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20. Không đồng ý với Quyết định dân sự sơ thẩm, ngày 21/6/2018 ông Trần Văn L kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Y.
Theo Quyết định dân sự phúc thẩm số 243/2018/QĐPT-DS ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Y xác định ông Trần Văn L được ½ quyền sử dụng trong diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20 tổ 35, khóm 4, phường 1, thành phố X.
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X nhận thấy tại hai Quyết định nêu trên chưa thể hiện rõ về quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản riêng của bà Nguyễn Thị Đ trong khối tài sản chung của hộ ông Trần Văn L nên ban hành Công văn đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Y giải thích trong trường hợp này thì bà Nguyễn Thị Đ được hưởng bao nhiêu trong quyền sử dụng trong diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20 (100m2 – ONT, 21,3m2 – CLN) và được hưởng bao nhiêu trong quyền sở hữu tài sản đối với căn nhà cấp 4 gắn liền với đất, tọa lạc tại: số 446, đường THĐ, phường 1, thành phố X, tỉnh Y của hộ ông Trần Văn L.
Sau đó, Tòa án nhân dân tỉnh Y có Công văn phúc đáp cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố, theo đó: Trong trường hợp này, Tòa án chỉ xác định ông Trần Văn L được ½ quyền sử dụng trong diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20 tổ 35, khóm 4, phường 1, thành phố X theo đơn yêu cầu của ông L.
Qua văn bản giải thích của Tòa như trên, thì Chi cục THADS thành phố X có quyền kê biên xử lý ½ phần tài sản còn lại trong khối tài sản chung của hộ ông L để thi hành án hay phải xác định rõ phần tài sản của bà Đ trong ½ phần tài sản còn lại mới có cơ sở xử lý tiếp?
Quan điểm xử lý vấn đề trên, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, cụ thể:
Ý kiến thứ nhất cho rằng: Tòa án tuyên không rõ nên Cơ quan THADS chưa có cơ sở để xử lý theo quy định, bởi: Tòa án không xác định phần tài sản của bà Đ trong khối tài sản chung được bao nhiêu để thi hành mà Tòa án chỉ xác định phần tài sản của ông L được ½ nhưng không nói rõ phần ½ còn lại của ai. Pháp luật về thi hành án quy định: Chấp hành viên chỉ được quyền kê biên tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung đã xác định được phần quyền sử dụng, quyền sở hữu, chứ không thể kê biên phần tài sản còn lại chưa xác định trong khối tài sản chung. Trong trường hợp này, Tòa án cần ra văn bản giải thích, bổ sung xác định phần tài sản còn lại là của ai? bà Đ được bao nhiêu? Hoặc Tòa án phải thụ lý lại để xác định phần tài sản của Đ thì Chấp hành viên mới có cơ sở thi hành tiếp.
Ý kiến thứ hai cho rằng: Căn cứ Khoản 2 Điều 9 TTLT 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/08/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong THADS thì: “Văn bản trả lời của Tòa án là căn cứ để Cơ quan THADS ra quyết định thi hành...”. Do đó, Cơ quan THADS cần nhanh chóng đưa vụ việc ra giải quyết, tránh kéo dài thời gian giải quyết gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ý kiến thứ ba cho rằng: Tòa án không cần thụ lý lại, nội dung tuyên của Tòa đã rõ, đã đủ cơ sở để cưỡng chế thi hành theo quy định, bởi: Căn cứ theo Quyết định dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Y đã xác định ông Trần Văn L được ½ quyền sử dụng trong diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20 tổ 35, trong khi 02 người con thừa nhận không có phần nào trong quyền tài sản này. Vậy, ½ phần tài sản còn lại tất nhiên là của bà Đ (việc bà Đ cho rằng bà không có phần tài sản nào trong khối tài sản chung của ông L là nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án).
Tác giả đồng tình với ý kiến thứ ba, bởi: Căn cứ nguồn gốc đất là của cá nhân ông Trần Văn L nhận chuyển nhượng không phải thuộc trường hợp Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất. Sau đó, bà Đ về sống chung như vợ chồng, lúc này ông L tự nguyện đưa tài sản vào sử dụng chung và tiến hành đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp đổi lại giấy chứng nhận ghi thành hộ vào năm 2003. Trong trường hợp này, ông L mặc nhiên thừa nhận đây là tài sản chung vợ chồng. Mặc dù, lúc này hộ ông L có thêm 02 người con nhưng còn nhỏ không có đóng góp gì và hiện nay 02 người con cũng thừa nhận không có quyền sử dụng nào trong phần đất này nên theo Quyết định dân sự phúc thẩm số 243/2018/QĐPT-DS ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Y xác định ông Trần Văn L được ½ quyền sử dụng trong diện tích 121,3m2, thuộc thửa đất số 207, tờ bản đồ số 20 tổ 35, khóm 4, phường 1, thành phố X là phù hợp. Việc Tòa án không đề cập đến ½ phần tài sản còn lại là của ai nhưng qua phân tích, nhận định, xem xét nguồn gốc đất ta cũng ngầm hiểu phần còn lại là của bà Đ (việc bà Đ cho rằng bà không có phần tài sản nào trong khối tài sản chung của ông L là nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án). Hơn nữa, sau khi Tòa phúc thẩm xác định ông L được ½ phần tài sản trong khối tài sản chung ông cũng không có ý kiến hay khiếu nại gì, 02 người còn cũng không có ý kiến hay tranh chấp, khiếu nại về quyết định của Tòa án. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án không cần thụ lý lại, đã đủ cơ sở để cưỡng chế xử lý ½ phần tài sản còn lại trong khối tài sản chung của hộ ông L để thi hành án cho các đương sự và thu tiền án phí theo quy định./.