Nhận dạng và kiểm sát việc nhận dạng

Ngày đăng : 08:00, 15/02/2019

(Kiemsat.vn) - Kết quả nhận dạng là nguồn chứng cứ pháp lý góp phần chứng minh sự thật của vụ án. Quá trình kiểm sát việc thực hiện nhận dạng cần thực hiện đúng quy định của BLTTHS và quan tâm một số vấn đề nêu trên để việc nhận dạng đạt kết quả cao, làm căn cứ giải quyết các vụ án hình sự. 

BLTTHS năm 2015 quy định những biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội và nhận dạng là một trong các biện pháp điều tra. Trong quá trình giải quyết vụ án, để làm rõ sự đồng nhất, sự giống nhau hay sự khác biệt giữa đối tượng nhận dạng và đối tượng có liên quan đến vụ án mà người nhận dạng đã tri giác trước đây còn ghi nhớ trong trí nhớ của người nhận dạng.

Ảnh minh họa - internet.

Nhận dạng là biện pháp điều tra do Điều tra viên thực hiện theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Nhận dạng là quá trình nhớ lại, nhận lại đối tượng mà trước đây người nhận dạng đã tri giác và ghi nhớ trong trí nhớ khi đối tượng đó xuất hiện trở lại. Mục đích của nhận dạng là xác định sự đồng nhất, sự tương đồng hay sự khác nhau giữa đối tượng nhận dạng thực tại với đối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước đây. Nhờ tiến hành nhận dạng Điều tra viên có thể thu thập, kiểm tra, củng cố nhiều tài liệu chứng cứ khác nhau để chứng minh các tình tiết của vụ án và làm cơ sở để xây dựng giả thuyết điều tra.

Người nhận dạng và đối tượng nhận dạng được quy định tại Điều 190 BLTTHS.

Người nhận dạng là người được Điều tra viên đưa ra để quan sát, so sánh đối tượng nhận dạng với hình ảnh của đối tượng mà người nhận dạng tri giác trước đây trong mối liên hệ với vụ án còn lưu giữ trong trí nhớ của người nhận dạng để nhận lại đối tượng cần nhận dạng. Theo quy định người nhận dạng gồm: người làm chứng, bị hại hoặc bị can.

Đối tượng nhận dạng là đối tượng được Điều tra viên đưa ra để nhận dạng bao gồm: Người (bị can, đối tượng bị tình nghi, người bị hại, người làm chứng); tử thi; đồ vật, súc vật; địa điểm, tài liệu...

Sự cần thiết để tiến hành nhận dạng được xác định căn cứ vào nhiệm vụ của hoạt động điều tra và những vấn đề cần chứng minh trong vụ án.

Trình tự tiến hành nhận dạng

Trình tự nhận dạng quy định theo Điều 190 BLTTHS như sau:

- Điều tra viên hỏi người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm  mà họ nhờ đó có thể nhận dạng được. Trường hợp người nhận dạng dưới 18 tuổi, thì phải mời cha mẹ, người đại diện hợp pháp hoặc thầy cô giáo của người đó tham dự.

- Số lượng người, vật hoặc ảnh đưa ra để nhận dạng ít nhất là ba và bề ngoài phải tương tự giống nhau. Đối với nhận dạng tử thi thì không áp dụng nguyên tắc này.

- Nếu người nhận dạng là người làm chứng, người bị hại thì Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối khai báo hoặc cố ý khai bao gian dối, việc giải thích phải được ghi vào biên bản.

- Trong khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đưa ra những câu hỏi mang tinh chất gợi ý. Chỉ sau khi nhận dạng đã được xác định một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên mới yêu cầu họ giải thích, đưa ra kết luận.

- Yêu cầu người nhận dạng giải thích là họ đã dựa vào các vết tích, đặc điểm gì mà xác nhận người, vật hoặc ảnh đó.

- Lập biên bản nhận dạng theo khoản 5 Điều 190 và các Điều 178, 133 BLTTHS năm 2015, theo mẫu. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khóe, tình trạng sức khỏe của những người nhận dạng và những người được đưa ra nhận dạng; đặc điểm của vật, ảnh đưa ra nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng; điều kiện, ánh sáng khi thực hiện nhận dạng.

Kiểm sát việc nhận dạng

Chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc nhận dạng là Kiểm sát viên. Căn cứ pháp lý để kiểm sát việc nhận dạng được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 42, khoản 1 Điều 190 BLTTHS năm 2015.

Theo quy định thì Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng, đây là điểm mới của BLTTHS năm 2015. Trước đây, BLTTHS không quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải kiểm sát trực tiếp, chỉ nghiên cứu biên bản do Điều tra viên chuyển đến.

Quá trình kiểm sát việc nhận dạng nếu phát hiện có vi phạm thì tùy mức độ vi phạm, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên khắc phục hoặc báo cáo lãnh đạo Viện xem xét, quyết định biện pháp phù hợp để loại trừ vi phạm, bảo đảm cho việc nhận dạng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Tiến hành nhận dạng và kiểm sát việc nhận dạng

Để thực hiện nhận dạng đúng quy định của Điều 190 BLTTHS năm 2015 và đạt kết quả thì quá trình nhận dạng cần quan tâm một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần có sự chuẩn bị nhận dạng: Lấy lời khai người nhận dạng để giúp cho họ nhớ lại những đặc điểm của đối tượng nhận dạng mà họ tri giác trước đây, là cơ sở để kiểm tra, xác minh lời khai của người nhận dạng cũng như xem xét khả năng nhận dạng của người nhận dạng.

Thứ hai, lập kế hoạch nhận dạng: Dựa trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, lời khai của người nhận dạng, đặc điểm nhân thân của người nhận dạng, đặc điểm của đối tượng nhận dạng, Điều tra viên lập kế hoạch nhận dạng: Xác định mục đích cuộc nhận dạng; xác định người nhận dạng, đối tượng nhận dạng; thời gian địa điểm tiến hành nhận dạng; dự kiến chiến thuật tiến hành nhận dạng; các phương tiện kỹ thuật cần thiết phục vụ cho cuộc nhận dạng; người chủ trì và người tham gia cuộc nhận dạng; mời người chứng kiến.

Thứ ba, lựa chọn đối tượng tương tự đưa ra nhận dạng: đối tượng là người có nét tương tự (cùng giới, độ tuổi, tầm vóc, màu tóc, màu mắt, khuôn mặt, màu da, chủng tộc...), đối tượng là đồ vật phải cùng chủng loại, màu sắc, độ cũ, mới..., đối tượng là động vật lựa chọn những; số đối tượng đưa ra để nhận dạng không được quá nhiều làm phân tán sự tập trung chú ý của người nhận dạng.

Thứ tư, khi tiến hành nhận dạng: Yêu cầu người nhận dạng quan sát; Điều tra viên không được đặt câu hỏi mang tính chất gợi ý. Chỉ sau khi người nhận dạng đã xác định một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích, đưa ra kết luận. Yêu cầu người nhận dạng giải thích là họ đã dựa vào các vết tích, đặc điểm gì mà xác nhận người, vật hoặc ảnh đó. Chụp ảnh các đối tượng nhận dạng và đối tượng được người nhận dạng xác định là đối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước đây. Lập biên bản nhận dạng và yêu cầu mọi người tham gia nhận dạng ký vào biên bản.

Thứ năm, đánh giá kết quả nhận dạng: Sau khi kiểm tra, xác minh kết quả nhận dạng và giá trị chứng minh của kết quả nhận dạng đối với vụ án. Việc đánh giá kết quả nhận dạng phải được tiến hành một cách thận trọng, khách quan. Kết quả nhận dạng đáng tin cậy khi người nhận dạng chỉ ra được những đặc điểm, vết tích riêng biệt của đối tượng nhận dạng. Kết quả nhận dạng sau khi được kiểm tra, đánh giá có thể được sử dụng là nguồn chứng cứ pháp lý trong hoạt động điều tra để chứng minh sự thật của vụ án.

BLTTHS năm 2015 quy định Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc nhận dạng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ Kiểm sát viên cần quan tâm một số nội dung sau:

- Kiểm sát viên bắt buộc phải trực tiếp kiểm sát việc nhận dạng. Quá trình trực tiếp kiểm sát nhận dạng phải yêu cầu Điều tra viên thực hiện đúng các quy định tại Điều 190 BLTTHS năm 2015. Khi phát hiện vi phạm phải yêu cầu Điều tra viên khắc phục.

- Kiểm sát chặt chẽ Biên bản nhận dạng về hình thức và nội dung, xem xét có đúng quy định Điều 178, 133, 190 BLTTHS không. Kết quả nhận dạng có khẳng định được người, ảnh, đồ vật,... phục vụ cho hoạt động điều tra.

Tóm lại, nhận dạng là biện pháp điều tra quan trọng được áp dụng rộng rãi trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án. Kết quả nhận dạng là nguồn chứng cứ pháp lý. Quá trình kiểm sát việc thực hiện nhận dạng cần thực hiện đúng quy định của BLTTHS và quan tâm một số vấn đề nêu trên để việc nhận dạng đạt kết quả cao, làm căn cứ giải quyết các vụ án hình sự.  

                                                       Đinh Thị Bích Hằng

VKSND TP Cẩm Phả

Theo trang VKSND tỉnh Quảng Ninh