Thông tư mới về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát

Ngày đăng : 08:51, 04/01/2019

(Kiemsat.vn) - Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 hướng dẫn về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2015 đã tạo điều kiện thuận lợi cho hai cơ quan trong giải quyết vụ án hình sự.

BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã tháo gỡ được nhiều khó khăn vướng mắc trong tố tụng hình sự, tạo hành lang pháp lý trong mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn còn nhiều quy định chưa rõ cần được hướng dẫn. 

Thông tư liên tịch số 04/2018 thay thế cho Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP đã làm rõ hơn các quy định về điều tra, truy tố, mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, tạo thuận lợi cho hai cơ quan trong quá trình giải quyết án hình sự. Theo đó, TTLT số 04 có những điểm mới như sau:

- TTLT số 04/2018 ngoài quy định về việc thay đổi, hủy bỏ lệnh, quyết định của Phó Thủ trưởng CQĐT thì bổ sung quy định về việc thay đổi, hủy bỏ lệnh, quyết định của Thủ trưởng CQĐT tại Điều 5.

- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của Thủ trưởng CQĐT không có căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ mà không cần yêu cầu CQĐT hủy bỏ (điểm c, khoản 1, Điều 7)

- Trường hợp xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì chậm nhất trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ 24 giờ CQĐT phải chuyển hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn cho VKS cùng cấp (khoản 3, Điều 10) (TTLT số 05/2005, thời hạn này là 12 giờ).

-  Sau khi thực hiện việc bổ sung chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của VKS, CQĐT phải có văn bản tiếp tục đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can kèm theo chứng cứ, tài liệu bổ sung (khoản 2 Điều 10).

Ảnh minh họa

- Trong giai đoạn điều tra, trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung chứng cứ, tài liệu quyết định việc truy tố thì KSV trực tiếp tiến hành hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra và các hoạt động điều tra khác theo quy định của BLTTHS và thông báo cho Điều tra viên trước khi tiến hành. Điều tra viên có trách nhiệm phối hợp với KSV để thực hiện các hoạt động điều tra khi được yêu cầu. Trong giai đoạn truy tố, nếu VKS trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra nêu trên để quyết định việc truy tố hoặc để giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án thì VKS thông báo cho CQĐT để phối hợp nếu thấy cần sự phối hợp của CQĐT (Điều 12).

Đây là quy định thể hiện sự chủ động của VKS trong việc tiến hành các hoạt động điều tra. Đối với hoạt động thực nghiệm điều tra, đã không bó hẹp VKS chỉ được yêu cầu CQĐT tiến hành thực nghiệm trong giai đoạn điều tra, ở giai đoạn truy tố thì chỉ thực nghiệm những tình huống điều tra đơn giản mà qua thực nghiệm tại chỗ có thể kết luận kiểm tra được chứng cứ. Tương tự đối với biện pháp điều tra đối chất, TTLT số 05/2005 quy định trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu có mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng thì KSV yêu cầu Điều tra viên tiến hành đối chất; KSV chỉ trực tiếp đối chất trong trường hợp có yêu cầu của CQĐT hoặc thấy việc đối chất của ĐTV chưa làm rõ được mâu thuẫn. Với quy định mới, KSV trực tiếp tiến hành đối chất trong những trường hợp như đã nêu ở trên.

- Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và trong thời hạn 12 giờ kể từ khi CQĐT giữ người hoặc nhận người bị giữ (chưa cần có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của VKS) (khoản 3 Điều 15).

- Cách quy định việc sử dụng lệnh tạm giam của CQĐT trong TTLT 04/2018 khác TTLT số 05/2005, tuy nhiên thời hạn tạm giam bị can không thay đổi. Theo đó, nếu thời hạn trong lệnh tạm giam của CQĐT còn nhưng không đủ để hoàn thành việc truy tố thì chậm nhất 05 ngày, VKS ra lệnh tạm giam mới, thời hạn tạm giam còn lại và thời hạn tạm giam mới không vượt quá thời hạn truy tố quy định tại Khoản 1 Điều 240 BLTTHS 2015 (TTLT số 05/2005 quy định: Thời hạn tạm giam mới được tính theo ngày tạm giam cuối cùng ghi trong lịch tạm giam của Cơ quan điều tra và không được quá thời hạn truy tố đối với từng tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 166 của BLTTHS 2003, trừ đi thời hạn đã tạm giam kể từ ngày Viện kiểm sát nhận hồ sơ vụ án) (Điều 18).

- TTLT số 04/2018 đã có quy định về chuẩn bị kết thúc điều tra. Theo đó, chậm nhất 10 ngày đối với vụ án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 15 ngày đối với vụ án rất nghiêm trọng, 20 ngày đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng trước khi kết thúc điều tra hoặc hết thời hạn điều tra, KSV và Điều tra viên phải phối hợp để đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án (Điều 31).

- Việc đóng dấu bút lục theo quy định tại khoản 5 Điều 88 hoặc hồ sơ đề nghị VKS xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT được thực hiện như sau: CQĐT đóng dấu bút lục vào góc trên bên phải, VKS đóng dấu bút lục của VKS vào góc dưới bên phải của từng trang tài liệu, biên bản. Không đánh số thứ tự do còn liên quan đến việc sắp xếp hồ sơ (điểm a,b Khoản 1 Điều 35).

 - Việc đóng dấu bút lục khi kết thúc điều tra và trong giai đoạn truy tố được thực hiện như sau: CQĐT đóng dấu bút lục ở góc trên bên phải của từng trang tài liệu, đánh số thứ tự từ 01 cho đến hết. Biên bản, tài liệu do VKS thu thập trong giai đoạn truy tố được đóng dấu bút lục của VKS vào góc trên bên phải, đánh số thứ tự tiếp theo số bút lục trong hồ sơ vụ án do CQĐT chuyển đến (điểm a, b Khoản 2 Điều 35).

Tuy vậy, bên cạnh những điểm mới đã làm rõ hơn một số quy định của BLTTHS năm 2015, TTLT số 04/2018 vẫn còn một số quy định chưa rõ, dễ gây hiểu sai như:

- Trường hợp đã kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố, VKS thấy cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với bị can thì VKS ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Thời hạn bảo lĩnh không quá thời hạn truy tố, tính từ ngày kế tiếp của ngày cuối cùng ghi trong quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh của CQĐT (Điều 21). Đây là quy định mới của BLTTHS khi quy định thời hạn áp dụng các BPNC bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử. Tuy nhiên, việc quy định thời hạn bảo lĩnh trong quyết định của VKS không quá thời hạn truy tố, tính từ ngày kế tiếp của ngày cuối cùng ghi trong quyết định của CQĐT là chưa rõ.

Ví dụ: CQĐT điều tra vụ án ít nghiêm trọng, có thời hạn điều tra là 02 tháng, từ ngày 01/9/2018 đến 01/11/2018; quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh có thời hạn 02 tháng từ ngày 01/9/2018 đến 01/11/2018; ngày 15/10/2018, CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang VKS; khi đó thời hạn quyết định việc truy tố của VKS là 20 ngày (từ ngày 15/10/2018 đến 04/11/2018). VKS thấy cần thiết tiếp tục áp dụng bảo lĩnh, vậy, theo quy định của Thông tư liên tịch, thời hạn ghi trên quyết định sẽ là: từ ngày 01/11/2018 đến 19/11/2018 là không hợp lý. Tương tự đối với áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm (Điều 22).

Theo tác giả, cần phải sửa đổi là: “thời hạn bảo lĩnh không quá thời hạn quyết định việc truy tố, tính từ ngày VKS nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra” hoặc quy định thêm: “Nếu thời hạn bảo lĩnh trong quyết định của Cơ quan điều tra còn nhưng không đủ để hoàn thành việc truy tố thì Viện kiểm sát ra quyết định mới, thời hạn bảo lĩnh còn lại và thời hạn bảo lĩnh mới không quá thời hạn quyết định việc truy tố”.

- Quy định tại Điều 23 còn chưa phù hợp. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 23 quy định: khi gia hạn điều tra, nếu thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo của CQĐT vẫn còn mà bằng hoặc dài hơn thời hạn quyết định việc truy tố, xét thấy cần tiếp tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó thì VKS tiếp tục sử dụng lệnh, quyết định của CQĐT. Quy định này chưa phù hợp với quy định của BLTTHS “thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn này không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử”; không phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 21, 22 Thông tư này. Quy định giữa Điều 21, 22 và 23 chỉ khác nhau ở trường hợp gia hạn điều tra; vụ án đều đã kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố nhưng ở Điều 21, 22 thì VKS ra lệnh mới; Điều 23 thì VKS tiếp tục sử dụng lệnh của CQĐT.

Tại đoạn 2 của khoản 2 Điều 23 quy định nếu thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn nêu trên của CQĐT vẫn còn nhưng không đủ để hoàn thành việc truy tố, mà xét thấy cần tiếp tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó thì chậm nhất 05 ngày trước khi hết thời hạn được ghi trong lệnh, quyết định, VKS ra lệnh, quyết định mới. Quy định này chưa nêu rõ cách tính thời hạn trong lệnh, quyết định của VKS là từ thời điểm nào, tính từ ngày kế tiếp của ngày cuối cùng ghi trong lệnh của CQĐT như quy định tại Điều 21, 22 hay từ ngày VKS nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.           

Xem thêm>>>

Cơ quan điều tra phải thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát

Cần có chế tài với tổ chức, cá nhân không cung cấp tài liệu cho Cơ quan điều tra                                   

Trần Hương Giang -  Phòng Thống kê tội phạm VKSND tỉnh Nghệ An