Dừng khai thác nước dưới đất ở khu vực bãi chôn lấp chất thải rắn

Ngày đăng : 11:40, 03/01/2019

(Kiemsat.vn) - Từ ngày 10/02/2019, quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất được thực hiện theo Nghị định 167/2018/NĐ-CP của Chính phủ.

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 167/2018/NĐ-CP quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất.

Nghị định này quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất ở các vùng chứa nước ngọt thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đối tượng áp dụng gồm: Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến việc khoanh định, công bố vùng hạn chế khai thác nước dưới đất và việc áp dụng các hình thức, biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất; Các tổ chức, cá nhân có hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng nước dưới đất thuộc trường hợp phải có giấy phép thăm dò, khai thác theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 52 của Luật tài nguyên nước.

Theo Nghị định, việc thực hiện các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất phải theo kế hoạch, lộ trình cụ thể trong phương án quy định tại Điều 13 của Nghị định này, trừ trường hợp sự cố, gây sụt, lún đất hoặc các tình huống khẩn cấp cần phải xử lý, trám lấp giếng để khắc phục sự cố.

Vùng hạn chế khai thác nước dưới đất (vùng hạn chế) được phân loại gồm các vùng: Vùng hạn chế 1; Vùng hạn chế 2; Vùng hạn chế 3; Vùng hạn chế 4; Vùng hạn chế hỗn hợp. Mỗi vùng hạn chế bao gồm một hoặc một số khu vực hạn chế khai thác nước dưới đất.

Cụ thể, Vùng hạn chế 1 bao gồm các khu vực sau:

- Khu vực đã từng xảy ra sự cố sụt, lún đất, biến dạng địa hình;

- Khu vực có bãi chôn lấp chất thải rắn tập trung;

- Khu vực có giếng khai thác nước dưới đất bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và sinh vật;

- Khu vực có nghĩa trang tập trung hoặc các khu vực có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước dưới đất khác do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương …

Về biện pháp hạn chế khai thác trong Vùng hạn chế 1: Dừng toàn bộ mọi hoạt động khai thác nước dưới đất hiện có và thực hiện xử lý, trám lấp giếng đối với các khu vực thuộc Vùng 1.

Việc khoanh định Vùng hạn chế 2 được thực hiện đối với các khu vực, tầng chứa nước sau đây:

- Các tầng chứa nước lỗ hổng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long;

- Đối với các tầng chứa nước lỗ hổng ở các địa phương không quy định tại điểm a khoản này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ quy mô, mức độ khai thác nước dưới đất, mức độ hạ thấp mực nước dưới đất và yêu cầu về bảo vệ nguồn nước dưới đất trên địa bàn quyết định việc khoanh định;

- Các tầng chứa nước trong đá bazan ở các địa phương thuộc khu vực Tây Nguyên.

Các khu dân cư, khu công nghiệp tập trung (hiện có hoặc đã được phê duyệt quy hoạch) thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được khoanh định vào Vùng hạn chế 3:

- Đã được đấu nối với hệ thống cấp nước tập trung, bảo đảm nhu cầu sử dụng nước cả về thời gian, lưu lượng và chất lượng nước phù hợp với mục đích sử dụng nước;

- Chưa được đấu nối nhưng có điểm đấu nối liền kề của hệ thống cấp nước tập trung và sẵn sàng để cung cấp nước sạch, bảo đảm nhu cầu sử dụng nước cả về thời gian, lưu lượng và chất lượng nước phù hợp với mục đích sử dụng nước.

Trường hợp khu dân cư, khu công nghiệp tập trung không thuộc Vùng hạn chế 3 mà cách sông, suối, kênh, rạch, hồ chứa (sau đây gọi tắt là nguồn nước mặt) không vượt quá 1.000 m và nguồn nước mặt đó đáp ứng đủ các điều kiện sau đây thì được khoanh định vào Vùng hạn chế 4:

- Có chức năng cấp nước sinh hoạt hoặc được quy hoạch để cấp nước sinh hoạt;

- Có chế độ dòng chảy ổn định, dòng chảy tối thiểu từ 10 m3/s trở lên đối với sông, suối, kênh, rạch hoặc tổng dung tích từ 10 triệu m3 trở lên đối với hồ chứa;

- Có chất lượng nước đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt cột A1 trở lên.

Về biện pháp hạn chế khai thác trong Vùng hạn chế 2,3,4, Nghị định quy định: Không cấp phép thăm dò, khai thác để xây dựng thêm công trình khai thác nước dưới đất mới.

Xem chi tiết Nghị định 167/2018/NĐ-CP tại đây./.

Cẩm Thi