Trả lại giá trị tài sản trộm cắp, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ là bồi thường thiệt hại
Ngày đăng : 13:57, 11/09/2018
Sau khi đọc bài "Áp dụng tình tiết giảm nhẹ nào với trường hợp trả lại giá trị tài sản trộm cắp” của tác giả Nguyễn Quốc Đoàn đăng trên Tạp chí Kiểm sát online ngày 05/9/2018, tôi xin trao đổi như sau:
Theo như nội dung vụ án thì Nguyễn Văn A chưa thành niên phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Giá trị tài sản bị trộm cắp là 5.000.000 đồng. Như vậy, có thể suy ra là A từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, tôi xin trao đổi thêm một số vấn đề sau:
- Việc cha, mẹ của A trả lại cho anh B số tiền 6.000.000 đồng là hoàn trả lại tiền đã cầm xe hay là bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Việc cha mẹ của A trả lại tiền 6.000.000 đồng cho anh B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (mà không phải là bị hại hay nguyên đơn dân sự) trong vụ án thì có được coi là tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” không.
Ảnh minh họa |
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hành vi phạm tội của nguyễn Văn A là trộm cắp chiếc xe. Còn việc A đem xe vừa trộm được đi cầm cho anh B là giao dịch dân sự (cầm xe) giữa A và anh B. Tuy nhiên, giao dịch cầm xe giữa A và anh B là vô hiệu bởi chiếc xe không phải là tài sản hợp pháp của A. Do đó, Tòa án đưa anh B vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Theo quy định của pháp luật thì giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu là các bên hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, bên gây thiệt hại nếu có lỗi thì phải bồi thường. A là người dưới 18 tuổi nhưng trên 15 tuổi nên về nguyên tắc A phải chịu trách nhiệm hoàn trả lại tiền cho anh B nhưng vì A đã tiêu xài tiền hết và sống chung cha mẹ nên cha mẹ của A sẽ có trách nhiệm hoàn trả lại tiền cho anh B mà không phải là đợi đến khi A tác động thì mới trả lại tiền cho anh B. Như vậy, trong vụ án này việc trả lại cho anh B số tiền 6.000.000 đồng là hoàn trả lại tiền cầm xe do giao dịch bị vô hiệu. Anh B hoàn toàn không có thiệt hại gì nên theo quan điểm của tôi việc cha, mẹ của A trả lại cho anh B số tiền 6.000.000 đồng không phải là bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Thứ hai, theo Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 02/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì có hướng dẫn như sau:
“1. Về tình tiết "người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả" quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 của BLHS
1.1. Cũng được áp dụng tình tiết "người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả" nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
b. Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có tài sản;
c. Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
d. Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên xuất trình được chứng cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường khi có yêu cầu;
đ. Bị cáo không có tài sản để bồi thường nhưng đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè…) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
e. Bị cáo không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra (ví dụ việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ, hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu bị cáo không có tài sản để bồi thường) và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
1.2. Đối với các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm đ và e tiểu mục 1.1 mục 1 này mà bị cáo không có việc tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, nếu những người này đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì bị cáo chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của BLHS”.
Từ hướng dẫn này có thể nhận thấy là thiệt hại hoặc hậu quả là do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra. Và người bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây phải là bị hại (người bị thiệt hại là cá nhân), nguyên đơn dân sự (người bị thiệt hại là cơ quan, quan tố chức) hoặc người đại diện hợp pháp của họ mà không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Cho nên việc cha mẹ của A trả lại tiền 6.000.000 đồng cho anh B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì theo quan điểm của tôi không được coi là tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”. Vì vậy, tình tiết cha mẹ của A hoàn trả lại tiền cầm xe cho anh B có thể xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2015 mà không phải là “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” theo điểm b, khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.
Xem thêm>>>
Bồi thường thiệt hại đầy đủ, có phải chịu tội không?
Những trường hợp không được bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự