Hình phạt đối với pháp nhân thương mại
Ngày đăng : 16:19, 12/04/2018
Ảnh minh họa (nguồn internet) |
Căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, Điều 83 BLHS năm 2015 có một căn cứ là: “Căn cứ việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại”. Nếu việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại trước khi phạm tội cũng như sau khi phạm tội và trước khi xét xử được đánh giá là tốt thì việc Tòa án quyết định chọn một loại và mức hình phạt sẽ có lợi hơn so với một pháp nhân thương mại trước khi phạm tội hoặc sau khi phạm tội và trước khi xét xử được đánh giá là không tốt, nếu các tình tiết khác của vụ án tương tự.
Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại được coi như tương tự với tình tiết “nhân thân” của người phạm tội. Ví dụ: Công ty A và Công ty B đều bị truy tố về tội tội trốn thuế theo khoản 3 Điều 200 BLHS năm 2015, nhưng Công ty A đã bị xử phạt hành chính nhiều lần và trong quá trình điều tra không hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, còn Công ty B chưa bị xử phạt lần nào và tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, còn Công ty B chỉ bị đình chỉ hoạt động 01 năm.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội
- Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, đối với pháp nhân thương mại, việc ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm có thể do pháp nhân thương mại hoặc lãnh đạo của pháp nhân thương mại thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại mình. Nếu lãnh đạo của pháp nhân thương mại cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì tình tiết giảm nhẹ này là tình tiết giảm nhẹ “kép” vừa được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, vừa được áp dụng đối với người phạm tội của pháp nhân thương mại.
- Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Nếu cá nhân người trong pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cả pháp nhân thương mại và cá nhân người phạm tội đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ cũng tương tự như đối với trường hợp quy định tại điểm a và b.
- Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ cũng tương tự như đối với trường hợp quy định tại điểm a, b và c.
- Có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội: Đây là tình tiết giảm nhẹ chỉ quy định cho pháp nhân thương mại phạm tội. Nếu so sánh với các tình tiết giảm nhẹ đối với người phạm tội quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015 thì tình tiết giảm nhẹ này cũng có điểm tương đồng với các tình tiết quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, đối với người phạm tội thì những thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác là của cá nhân người phạm tội và các thành tích xuất sắc đó phải được ghi nhận bởi các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội bằng các hình thức khen thưởng như Giấy khen, Bằng khen, Huân chương, Huy chương và các danh hiệu cao quý khác, còn đối với pháp nhân thương mại chỉ cần có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội là tổ chức kinh tế này (pháp nhân thương mại) có nhiều đóng góp cho việc thực hiện chính sách xã hội như: nhận làm nhà tài trợ cho một giải thi đấu thể thao hoặc biểu diễn nghệ thuật, xây nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào lũ lụt, tặng tiền hoặc hiện vật cho trường học, giúp đỡ các gia đình có công với nước… Có thể việc đóng góp đó được tặng các danh hiệu cao quý, nhưng cũng có thể không được tặng, miễn là cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương xác nhận. Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại thương mại phạm tội, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được BLHS quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội
- Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội: Tình tiết phạm tội này cũng tương tự như tình tiết phạm tội có tổ chức đối với người phạm tội, nhưng đối với pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội bao giờ cũng là hành vi có tổ chức nên không cần phải quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hình thức phạm tội có tổ chức của pháp nhân thương mại ở tình tiết tăng nặng được mở rộng hơn, đó là “câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội”. Tình tiết có tính đặc thù chỉ đối với pháp nhân thương mại thương mại mới có.
- Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.
- Phạm tội 02 lần trở lên: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.
- Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm l khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự .
- Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm: Tình tiết phạm tội này có một phần giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm m khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015, đó là dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội. Phần nội dung còn lại của tình tiết tăng nặng nói trên là dùng thủ đoạn tinh vi nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm. Tuy nhiên, nội dung của thủ đoạn “tinh vi” thì cũng giống như thủ đoạn “tinh vi” để phạm tội, chỉ khác ở mục đích việc dùng thủ đoạn tinh vi là nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm. Khác với các tình tiết giảm nhẹ, đối với các tình tiết tăng nặng thì chỉ tình tiết nào được BLHS quy định thì Tòa án mới được áp dụng, chứ không được tự ý coi những tình tiết khác không được BLHS để coi là tình tiết tăng nặng đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng nữa.
Hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Do chủ thể không phải là con người, nên các hình phạt đối với pháp nhân thương mại cũng không thể như con người được. Nhà nước chỉ có thể đóng cửa một công ty; đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với một doanh nghiệp; cấm doanh nghiệp kinh doanh hoặc phạt tiền đối với một doanh nghiệp, chứ không thể bỏ tù hoặc cải tạo không giam giữ đối với một công ty hay một doanh nghiệp. Vì vậy, Nhà nước đã đề ra hình phạt đối với pháp nhân thương mại cũng chủ yếu nhằm tạo ra môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 33 BLHS năm 2015 thì pháp nhân thương mại phạm tội có thể bị áp dụng các hình phạt sau:
- Đối với hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Phạt tiền đối với pháp nhân thương mại: Theo Điều 77 BLHS năm 2015 thì phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng.
Nếu Tòa án áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại là hình phạt chính thì không được áp dụng hình phạt này là hình phạt bổ sung nữa. Tuy nhiên, nếu Tòa án áp dụng hình phạt khác (không phải là tiền) là hình phạt chính thì có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại.
Nếu Tòa án áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại là phạt tiền thì phải căn cứ vào khung hình phạt tiền đối với tội phạm mà pháp nhân thương mại bị kết án để xác định mức tiền phạt cụ thể. Ví dụ: Công ty A bị kết án về tội trốn thuế quy định tại khoản 2 Điều 200 BLHS năm 2015 có khung hình phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự Tòa án áp dụng hình phạt Công ty A 700.000.000 đồng. Nếu Công ty A có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới 500.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng (mức tiền phạt thấp nhất của khoản 1 Điều 200 BLHS năm 2015) nhưng không được dưới 50.000.000 đồng.
Đình chỉ hoạt động có thời hạn: Theo quy định tại Điều 78 BLHS năm 2015 thì đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.
Căn cứ vào nội dung quy định trên thì pháp nhân thương mại có thể bị Tòa án đình chỉ hoạt động một hoặc một một số lĩnh vực chứ không đình chỉ toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực này pháp nhân thương mại có khả năng khắc phục.
Việc đánh giá và xác định một pháp nhân thương mại có khả năng khắc phục là một việc không dễ. Thông thường, pháp nhân thương mại khi phạm tội bao giờ cũng đưa ra những lý do cho rằng mình sẽ khắc phục được hậu quả trong một thời gian để không bị Tòa án áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Vì vậy, khi áp dụng loại hình phạt này, Tòa án cần có những căn cứ, nếu cần phải yêu cầu cơ quan chuyên môn giám định hoặc đến tận nơi để kiểm tra, xác minh xem có đúng là pháp nhân thương mại đó có khả năng khắc phục không. Nếu quan liêu, chỉ nghe báo cáo thì việc áp dụng hình phạt này sẽ không chính xác. Việc áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại cần chú ý chỉ đình chỉ một hoặc một số lĩnh vực chứ không được đình chỉ toàn bộ các lĩnh vực. Tòa án đình chỉ lĩnh vực nào thì phải nhận định lý do vì sao. Khi bị tòa án đình chỉ một hoặc một số lĩnh vực thì các lĩnh vực không bị đình chỉ, pháp nhân thương mại vẫn có quyền tiếp tục hoạt động. Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm. Vấn đề đặt ra là, nếu pháp nhân thương mại phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì có được áp dụng thời hạn đình chỉ dưới 6 tháng không ? Đây là vấn đề chưa được BLHS quy định. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định của BLHS đối với người phạm tội thì một người phạm tội nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, nên đối với pháp nhân thương mại phạm tội mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì không có lý do gì lại không được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn.
Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn: Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoàn toàn hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra. Cũng như trường hợp đình chỉ hoạt động có thời hạn, Tòa án chỉ được đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực chứ không được đình chỉ tất cả những lĩnh vực nếu như pháp nhân thương mại chỉ phạm tội có liên quan đến một hoặc một số lĩnh vực. Khi áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực pháp nhân thương mại phạm tội, Tòa án cần căn cứ vào thiệt hại pháp nhân thương mại gây ra hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến các lĩnh vực bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn mà pháp nhân thương mại không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Pháp nhân thương mại bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực vẫn có thể tiếp tục hoạt động các lĩnh vực khác không bị đình chỉ. Nếu pháp nhân thương mại chỉ đăng ký hoạt động một hoặc một số lĩnh vực bị đình chỉ thì sau khi bị Tòa án áp dụng hình phạt đình chỉ hoặc bị Tòa án áp dụng hình phạt bổ sung cấm kinh doanh trong một số lĩnh vực; pháp nhân thương mại đó có thể đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để tiếp tục hoạt động các lĩnh vực khác, chứ không bắt buộc phải giải thể. Trường hợp pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động (tức là, giải thể pháp nhân thương mại đó).
- Đối với hình phạt bổ sung bao gồm:
Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định: Cùng với hình phạt chính, Tòa án có thể áp dụng hình phạt bổ sung cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực khi xét thấy, nếu để pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó, thì có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội. Tòa án phải nói rõ trong bản án là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nào, chứ không thể tuyên chung chung là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định được. Cho dù Tòa án áp dụng hình phạt chính là đình chỉ hoạt động có thời hạn hay đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực thì việc cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định cũng chỉ từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chứ không được cấm vĩnh viễn, vì đây là hình phạt bổ sung.
Cấm huy động vốn: Cấm huy động vốn là hình phạt bổ sung được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án huy động vốn thì có nguy cơ tiếp tục phạm tội. Các hình thức cấm huy động vốn bao gồm: Cấm vay vốn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc quỹ đầu tư; cấm phát hành, chào bán chứng khoán; cấm huy động vốn khách hàng; cấm liên doanh, liên kết trong và ngoài nước; cấm hình thành quỹ tín thác bất động sản. Tòa án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số hình thức cấm huy động vốn trên. Tuy nhiên, thời hạn cấm huy động vốn cũng chỉ từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, vì đây là hình phạt bổ sung.
Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính: Khi Tòa án không áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội là phạt tiền như: đình chỉ hoạt động có thời hạn hay đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực thì mới được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Nếu đã áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội là phạt tiền thì không được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung nữa. Mức phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội cũng phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng (tương tự như đối với hình phạt chính). Cũng như đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội thì với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Cũng tương tự như đối với người phạm tội, trong trường hợp pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 86 của BLHS năm 2015.
Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước về đình chỉ hoạt động có thời hạn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung. Trong trường hợp một pháp nhân thương mại phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 87 BLHS năm 2015.
Miễn hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Bộ luật Hình sự không quy định trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội mà chỉ quy định miễn hình phạt, nếu pháp nhân thương mại phạm tội đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì có thể được miễn hình phạt. Như vậy, điều kiện (căn cứ) để pháp nhân thương mại được miễn hình phạt khác với điều kiện người phạm tội được miễn hình phạt.
Theo quy định tại Điều 88 BLHS năm 2015 thì pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Quy định về
miễn hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội khác với trường hợp đối với người phạm tội. Nếu đối với người phạm tội thì căn cứ để miễn hình phạt chính là nội dung của căn cứ miễn trách nhiệm hình sự nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự còn đối với pháp nhân thương mại phạm tội chỉ cần có đủ hai điều kiện, đó là: “đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”. Ngoài ra, không còn điều kiện nào khác. Cũng không căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Xem thêm>>>
Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự khi nào?
Mức tiền nộp để đảm bảo thi hành án của pháp nhân thương mại