Cần phân biệt “tội phạm” và “phạm tội” để xác định trách nhiệm của T
Ngày đăng : 09:37, 28/03/2018
Ảnh minh họa |
Trước hết, cần phân biệt rõ giữa “tội phạm” và “phạm tội”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tội phạm được quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý...”. Theo đó, tội phạm phải có đầy đủ các yếu tố bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự; người thực hiện hành vi có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại có năng lực trách nhiệm hình sự; người thực hiện hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi đó có lỗi; hành vi đó xâm phạm đến khách thể được Bộ luật hình sự bảo vệ.
Như vậy, nếu như “tội phạm” theo quy định của BLHS phải có đầy đủ các yếu tố trên, thì “phạm tội” là hành động thực hiện tội phạm, nhưng có thể do người không có năng lực TNHS thực hiện và không bị coi là tội phạm.
Từ những phân tích trên đối chiếu với quy định tại Khoản 1 Điều 250 BLHS năm 1999: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Trong tình huống tác giả đã nêu Nguyễn Văn H (sinh ngày 12/7/2001) ngày 04/5/2017, lấy trộm 02 chiếc điện thoại tổng trị giá 10.100.000 đồng. Như vậy, hành vi của Nguyễn Văn H có dấu hiệu của tội: Trộm cắp tài sản, quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999. Tuy chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm do chủ thể chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự đối với tội Trộm cắp tài sản, nhưng đủ cơ sở để kết luận hành vi đó là phạm tội. Do đó, khi Trần Tiến T mua 02 chiếc điện thoại của Nguyễn Văn H trộm cắp, T biết rõ là tài sản do H trộm cắp mà có đã phạm vào tội: Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, quy định tại Điều 250 BLHS.