Viện kiểm sát vẫn phải ra thông báo về thống nhất kết quả giải quyết tin báo tội phạm

Ngày đăng : 09:31, 21/03/2018

(Kiemsat.vn) - Theo tác giả khi kiểm sát kết quả khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát vẫn phải ra thông báo bằng văn bản về việc thống nhất kết quả giải quyết nếu xét thấy có đủ căn cứ.

Ảnh minh họa

Trong thời hạn quy định tại Khoản 2 Điều 103 của BLTTHS, Cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan Nhà nước; nếu xác định có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn 24giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định đó kèm theo các tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp.Theo Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKS-BCA-BQP ngày 07/09/2005 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra Viện kiểm sát thực hiện quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2003, tại tiểu mục 7.1 mục 7 “Về việc khởi tố và kiểm sát khởi tố vụ án hình sự” quy định như sau: “Việc thực hiện thẩm quyền khởi tố và kiểm sát khởi tố vụ ánhình sự quy định tại các Điều 104 và 105 của BLTTHS được thực hiện như sau:

Trong thời hạn 3 ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan, nếu thấy đủ căn cứ thì Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản cho Cơ quan điều tra biết; nếu chưa đủ căn cứ thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài liệu, chứng cứ. Trường hợp đủ căn cứ chứng tỏ rằng quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự rõ ràng là không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ; nếu Cơ quan điều tra không nhất trí thì Viện kiểm sát căn cứ Khoản 2 Điều 109 của BLTTHS ra quyết định hủy bỏ.”

Khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP vẫn còn hiệu lực thi hành và chưa có văn bản khác thay thế. Mặc khác, theo Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao (gọi tắt là quy chế 03) tại khoản 1 Điều 13 quy định:

“1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận được quyết định không khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đó và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:

a) Nếu thấy ch­ưa đủ căn cứ thì có văn bản yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ;

b) Nếu thấy không có căn cứ thì yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu cơ quan đó không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 153, khoản 6 Điều 159 Bộ luật Tố tụng hình sự và gửi cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để tiến hành điều tra;

c) Nếu thấy đủ căn cứ thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.”

Như vậy, mặc dù hiện tại Điều 154 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Thông tư liên tịch 01/2017 không quy định Viện kiểm sát phải có văn bản thể hiện quan điểm đồng ý hoặc không đồng ý về kết quả giải quyết. Tuy nhiên, tại tiểu mục 7.1 mục 7 Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP và tại khoản 1 Điều 13 Quy chế 03 đã quy định về vấn đề nay, cho nên theo quan điểm của tôi thì khi kiểm sát kết quả khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát vẫn phải ra thông báo bằng văn bản về việc thống nhất kết quả giải quyết nếu xét thấy có đủ căn cứ./.                                 

Diệu Nương – VKSND TX Cai Lậy, Tiền Giang