Xử lý vật chứng là tài sản chung của vợ chồng thế nào?
Ngày đăng : 09:12, 13/02/2018
Ảnh minh họa |
Nội dung vụ việc:
Ngày 20/6/ 2017, Nguyễn Văn D đã dùng xe mô tô biển số X đi trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Văn T gồm 02 lượng vàng 24K và 85 triệu đồng. Quá trình điều tra, Nguyễn Văn D khai chiếc xe Nguyễn Văn D điều khiển đi trộm tài sản của ông T là tài sản chung của D và vợ là chị Huỳnh Thị Thanh H. Chị H cũng thừa nhận chiếc xe là tài sản chung của hai vợ chồng. Cơ quan tiến hành tố tụng xác định chiếc xe biển số X là vật chứng trong vụ án. Việc xử lý vật chứng đồi với chiếc xe biển số X hiện còn quan điểm khác nhau.
Đối chiếu quy định tại điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đều quy định: vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ (nộp ngân sách) nhà nước hoặc tiêu hủy.
Thực tiễn giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng đã giao vật chứng trên cho chị H, với lập luận cho rằng việc bị can (bị cáo) Nguyễn Văn D lấy xe đi trộm tài sản nhưng chị H không biết nên không thể tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Có quan điểm cho rằng phải xác định giá trị của chiếc xe, sau đó giao chiếc xe cho chị H, buộc chị H trả ½ giá trị chiếc xe rổi tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền này. Tuy nhiên đối với quan điểm này thì có vấn đề đặt ra đó là: Nếu hồ sơ vụ án chuyển sang Tòa án thì ai hoặc cơ quan nào sẽ tiến hành định giá tài sản? Trình tự, thủ tục thực hiện như thế nào? Căn cứ pháp luật nào?
Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của các đồng nghiệp và bạn đọc trên Kiemsat.vn.