Giết người hay cố ý gây thương tích?
Ngày đăng : 09:30, 17/01/2018
Để làm rõ mặt chủ quan của 2 tội phạm này, cần có kỹ năng khai thác lời khai và hỏi cung bị can, cũng như phân tích cẩn thận, lập luận chắc chắn từng tình tiết để việc truy tố, xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. Dưới đây chúng tôi xin nêu ra một ví dụ điển hình để bạn đọc cùng trao đổi.
Ảnh minh họa |
Nội dung vụ việc:
hoảng 20h30, ngày 05/4/2017, A và B đi làm về ghé quầy tạp hóa để mua món nhậu thì gặp nhóm thanh niên gồm K, V và một số thanh niên khác đang ngồi uống bia ở đấy. Do có quen biết một số người nên A có nói:
- “Chúng mày đang uống bia à?” và ngồi vào ghế trong bàn.
Nghe A nói vậy, K hỏi lại: “Mày có quen biết ai ở đây không mà lại xưng hô chúng mày?”.
A trả lời: “Có biết mày là con cô T”.
K lại nói: “Mới đi làm về thì mua thùng bia mấy anh em uống cho vui”.
A trả lời: “Tao không uống bia, tao chỉ uống rượu, chúng mày qua nhà tao ngồi nhậu”.
Nghe A nói, K không đồng ý: “Giờ qua nhà thì phiền lắm, giờ này để bố mẹ mày nghỉ ngơi”.
Nghe K nói vậy thì A nói với B gọi bia ra uống cùng với cả nhóm. Trong quá trình ngồi nhậu, A có xưng hô mày - tao với những người còn lại, trong đó có một người lớn tuổi hơn A. K lại nói với A:
- “Mày mấy tuổi mà xưng mày tao?”
A nghe vậy thì nói: “Tao không biết, tao xin lỗi”. Nói rồi A rót bia vào 2 ly mời người anh lớn tuổi hơn A uống.
Đến khoảng 22h cùng ngày, chủ quán nói cả nhóm đi về để đóng quán. Cả nhóm đứng dậy thanh toán rồi ra ngoài đường phía trước quầy tạp hóa đứng chơi. K lại đi tới chỗ A hỏi:
- “Sao mày hỗn vậy?” Nói rồi, K vung tay phải đấm vào mặt bên trái A, bị bất ngờ và đau, A ngồi xuống hai tay ôm mặt. Nhóm thanh niên thấy vậy, can ngăn, kéo K ra xa khoảng 5 mét (m), K ngồi xuống bên đường.
Một lúc sau, A đứng dậy chạy tới chỗ K và hỏi: “K ơi, sao mày đánh tao?”.
V thấy vậy thì chạy tới xô A bằng 2 tay nhưng A không ngã, nhóm thanh niên lại tới kéo V ra. Trong khi đó, K lại tiếp tục nhảy vào đấm vào mặt trái của A một cái nữa làm A ngã nằm nghiêng xuống đường. K tiếp tục lấy chân phải đạp vào đầu A, nhóm thanh niên tiếp tục kéo K ra thì K lại dùng chân phải đá vào phần trước mặt A một cái nữa. V lại chạy vào đá liên tiếp 02 cái vào ngực A. Thấy A bị bất tỉnh, mặt mũi ra nhiều máu, 2 thanh niên trong nhóm lấy xe mô tô đưa A đi cấp cứu nhưng A đã tử vong trên đường đi.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi có xác định nguyên nhân chết của A là: Chấn thương sọ não (dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương sọ não, thái dương đỉnh phải, chẩm phải và thái dương đỉnh trái có các khối sưng nề, trên nền khối sưng nề có bầm tụ máu; tổ chức dưới da và vùng thái dương hai bên bầm tụ máu; tụ máu lan tỏa dưới màng cứng vùng thái dương, đỉnh, chẩm bán cầu đại não hai bên, tụt hạnh nhân tiểu não).
Có 2 ý kiến về việc xác định tội danh của K và V như sau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, K và V phạm tội “Giết người” vì trong thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp những người tiến hành tố tụng cho rằng nếu hành vi phạm tội (tương tự như cố ý gây thương tích: Đấm, đá, đâm, chém...) làm cho nạn nhân chết ngay tại chỗ, hoặc sau vài giờ mới chết thì nên truy tố về tội “Giết người”. Cần phải căn cứ vào hành vi, hậu quả và mối quan hệ duy vật biện chứng giữa hành vi và hậu quả để định tội danh. Trong trường hợp này, A đã tử vong trên đường được đưa đi cấp cứu nên cần phải truy tố về tội “Giết người”.
Quan điểm thứ hai cho rằng, K và V phạm tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”. Việc định tội danh trong trường hợp này cần phải căn cứ vào ý chí chủ quan của người phạm tội, vì đây mới là vấn đề mấu chốt để phân biệt với tội “Giết người”. Đối với tội “Giết người”, người phạm tội cố ý với hành vi giết người và hậu quả chết người; đối với tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”, người phạm tội cố ý với hành vi gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe nhưng lại vô ý với hậu quả chết người. Trong trường hợp này, mâu thuẫn của K, V với A xuất phát từ việc xưng hô không lịch sự, hai bên có nói qua nói lại với nhau về vấn đề này, nhưng không thể dung hòa mâu thuẫn. Xét trường hợp nếu K muốn tước đoạt tính mạng của A thì có thể thực hiện ngay từ lúc nảy sinh bực tức (gọi là lỗi cố ý đột xuất), hoặc sau lúc cùng ngồi uống bia với nhau rồi ra ngoài đường trước quán tạp hóa, rõ ràng K có đủ điều kiện để chuẩn bị mọi thứ thuận tiện cho việc tước đoạt tính mạng của A (gọi là lỗi cố ý có dự mưu). Cần phải cân nhắc rằng, trong trường hợp giết người, K phải thực hiện một loạt hành vi một cách mãnh liệt hơn nữa, vì hành động cố ý gây thương tích và hành động cố ý tước đoạt tính mạng khác nhau về tính chất, mức độ; hơn nữa, hành vi của K đã có sự gián đoạn, vì bị ngăn cản, tuy đây không phải là ý muốn chủ quan của K nhưng khi bị ngăn cản, K đã có sự chấp thuận ngăn cản và ngồi xuống đường. Nếu như thực sự muốn tước đoạt tính mạng của A, K đã không có sự dừng lại giữa chừng mà phải thực hiện đến cùng dù bị ngăn cản.
Tác giả đồng tình với ý kiến thứ 2 cho rằng, K và V phạm tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người” vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khi xác định tội danh “Giết người” hay “Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”, cần cân nhắc việc căn cứ vào hành vi phạm tội (tác động vào những vị trí trọng yếu của cơ thể; tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) và căn cứ vào ý chí chủ quan của người phạm tội (người phạm tội có ý định tước đoạt tính mạng của người khác hay không? hay chỉ mong muốn gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác) cũng như mối quan hệ duy vật biện chứng giữa ý chí và hành vi, giữa hành vi và hậu quả để xác định tội danh có tính thuyết phục nhất. Trong trường hợp này, K thực hiện hành vi bằng tay không mà không dùng hung khí, thực hiện các hành vi như đấm vào mặt, đạp vào đầu, đá vào mặt là những hành vi tương tự như với hành vi cố ý gây thương tích, hơn nữa, trong lúc xảy ra xô xát thì K và A có nói qua nói lại, đôi co với nhau xoay quanh vấn đề mâu thuẫn lúc mới gặp. Như vậy, K chỉ muốn dằn mặt, cảnh cáo A chứ không hề muốn tước đoạt tính mạng của A.
Thứ hai, khi định tội danh, mà các luận cứ không có quan điểm nào áp đảo và không có biện pháp nào để trung hòa các quan điểm thì cần phải áp dụng nguyên tắc nhân đạo. Tức là truy cứu người có hành vi phạm tội với tội danh nhẹ hơn nếu như định tội danh nặng hơn chưa có sức thuyết phục.
Rất mong nhận được sự quan tâm trao đổi ý kiến của đồng nghiệp và bạn đọc./.