Cuộc vượt biên của những đứa trẻ bỏ trường
Ngày đăng : 09:30, 21/11/2017
Bữa cơm đầu tiên ở bên kia biên giới của Sùng Mí Tú là cái bánh bao nhân thịt với chai nước trắng.
Tú 15 tuổi, nhỏ nhất trong nhóm người Mông xã Sà Phìn vượt biên sang Trung Quốc làm thuê. Mỗi ngày, em nhận được 80 nhân dân tệ cho công đào 160 hố trồng cây bạch đàn.
Tú không biết mình đang ở vùng nào của Trung Quốc, địa hình xung quanh ra sao. 10 người trú ở cái lán nằm sâu trong rừng. Ban đêm, họ rủ nhau đi ngủ sớm. Không ai dám đi quá khu lán một cây số vì sợ lạc đường, hoặc công an biên phòng Trung Quốc truy quét. Bị bắt rồi thì trả về nước, tiền công cũng mất hết.
Công trường vắt kiệt sức của đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn. Thi thoảng ban đêm, Tú nằm quay mặt vào vách lán, nghĩ về bạn học với thầy cô. Đi học thì không vất vả bằng đi làm, nhưng lại không kiếm ra tiền. Nó lắc lắc đầu, không nghĩ đến việc quay lại trường vì “chẳng nhét nổi chữ vào đầu”.
Theo thống kê của biên phòng Hà Giang, từ năm 2012 đến năm 2014, số lao động người dân tộc thiểu số vượt biên trái phép sang Trung Quốc làm thuê ở tỉnh này đã tăng gấp đôi, từ 11.652 lên 23.460 lượt. 94% trong số đó đi theo đường mòn biên giới, làm các công việc như trồng mía, bốc hàng, khai mỏ, phụ hồ.
Sùng Mí Tú, Chá Mí Sùng hay Sùng Mí Cấu – những cậu đứa trẻ trong bài viết này – đã và sẽ đi thẳng từ lớp học đến những công trường bất hợp pháp tại Trung Quốc. Họ tin rằng tương lai không nằm trong những trang sách chữ quốc ngữ thầy giáo chỉ mình đọc, mà ở những cái hố đất trồng cây người ta chỉ mình đào.
“Vượt biên đi làm là cách kiếm tiền dễ nhất”, Chá Mí Sùng nói.
Sùng Mí Tú đã ngược sang biên giới đi làm thuê vào một ngày đầu tháng Hai.
Thôn Lũng Hòa B của xã Sà Phìn nằm ven đường. Chiếc xe máy của người chú ruột chở Tú theo Quốc lộ 4C, qua cao nguyên đá lên Lũng Cú để vượt biên.
Hướng ấy ngược đường đi học hàng ngày của cậu thiếu niên. Sáng hôm đó bạn bè Tú vẫn đến trường. Sương trắng còn vờn trên những sườn đá tai mèo, hoa đào nở dọc các bản và cuộc chơi xuân của người Mông chỉ mới bắt đầu.
Chiều hôm trước, Tú còn đi học sau kỳ nghỉ Tết nguyên đán. Cũng ngày hôm đó, ông Sùng Xí Mua nhận được một cú điện thoại rủ đi làm thuê của người quen từ bên kia biên giới. Người đó bảo nếu ông không đi được thì có thể hỏi con trai. Ông đem chuyện về nói với Tú. “Bố già rồi, để con đi”, thằng bé lưỡng lự vài phút rồi gật đầu, không để ông hỏi đến lần thứ hai.
Hôm Tú đi, ông Mua dậy sớm cắm cơm, xào cải mèo. Cậu bé ăn xong hai bát, rồi xách cái túi đựng vỏn vẹn bộ quần áo. Cửa mở, khí lạnh mùa xuân trên núi cao ập vào nhà. Ông Mua chỉ kịp dặn con cẩn thận. Ông lo ở trong rừng sâu ở phía bên kia biên giới nhiều rắn độc, thổ phỉ với công an biên phòng. Thằng bé “vâng” một tiếng rồi đi.
Tú bỏ nhà, bỏ nương, bỏ thung lũng Sà Phìn, bỏ con chó nhỏ ra đi khi học kỳ II của lớp 9 mới bắt đầu.
“Càng học lên cao càng không nhét chữ được vào đầu. Thế mà vẫn lên lớp đều đều” – đấy là cách Chá Mí Sùng nói về nguyên nhân mình quyết định bỏ trường bỏ lớp, vượt biên sang Trung Quốc làm thuê.
Sùng bỏ bản Hầu Lùng Sán sang Trung Quốc nhặt rác công trường cũng vào ngày đầu xuân sau cái Tết 2015. Bản người Mông của xã Thượng Phùng, huyện Mèo Vạc nằm cách đường biên chỉ 2 km. Khi ấy, Sùng đã là học sinh lớp 10 trường PTDT nội trú Mèo Vạc. Cả bản có em với một bạn gái nữa thuộc diện học khá theo được đến phổ thông.
Lúc Sùng nói muốn nghỉ học, anh Chá Mí Tủa không một câu can ngăn, liền gật đầu đồng ý. Người đàn ông ngót 40 tuổi mất hai đời vợ, nuôi 8 đứa con không có nhiều tiền để lo cho thằng bé. Khi hai khoảnh nương gần nhà mỗi năm chỉ thu được chục bao lúa, thì với anh, mỗi tháng phải cho con 200.000 đồng thuê trọ, chưa có tiêu vặt là quá sức.
Ở bản này, đâu đâu cũng là chân ruộng nứt nẻ như gót chân người vào mùa đông. Càng lên cao nước càng hiếm, chỉ có đá và đá.
“Cả thôn có 30 học sinh từ cấp mầm non đến trung học cơ sở. Số này sẽ nghỉ học gần hết khi lên bậc phổ thông, cho học tiếp chúng cũng không đi”, người cha kiêm trưởng thôn nói luôn. Và lựa chọn của hầu hết con gái là lấy chồng, con trai qua biên giới làm thuê, kiếm vài chục đến vài trăm tệ mỗi ngày.
Hơn 10 năm dạy học ở vùng biên giới Hà Giang, thầy Hùng biết “tương đối” tiếng Mông để giao tiếp được với học sinh. Nhiều khi gặp ca khó trên lớp, thầy nói rát họng mà học sinh vẫn ngơ ngác, đành nản lòng mà bỏ qua. Sau rồi mặc định “không hỏi nghĩa là hiểu”.
“70% học sinh không thể đạt được khả năng đọc thông viết thạo, hoặc sai lỗi chính tả, hoặc phát âm sai”, thầy Hùng khẳng định. “Đây là sự thật, không Sở giáo dục nào thống kê, mình tự thống kê qua quá trình giảng dạy. Có những học sinh đi học nội trú nói tiếng phổ thông không thạo. Phát âm sai thì viết chắc chắn sẽ sai chính tả. Nếu để trừ điểm như học sinh dưới xuôi thì chắc phải cho các em 0 hết. Đành châm chước cho các em thôi”.
Thầy dẫn chứng, đầu năm học nhà trường sẽ khảo sát học sinh khối 6 đến 9 và mở lớp phụ đạo tiếng Việt mỗi tuần một tiết. Lớp này bắt buộc nói tiếng Việt để các em “tăng khả năng đọc thông, nói thạo”.
Những cố gắng ấy giúp thầy trò tiến đến mức “hiểu nhau đang nói gì”.
“Từ thế hệ học sinh không biết phản ứng đến biết mua hoa trong ngày 20/11 đã là nỗ lực. Còn để dạy cho không bị ngọng thì vài chục năm nữa hẵng hay”, thầy Hùng thừa nhận.
Đọc không thông, viết không thạo, nói không sõi trở thành rào cản vô hình mà những đứa trẻ vùng cao phải vượt qua khi càng lên lớp lớn. Những đứa trẻ dù đã lên trung học, nhưng vẫn thường im bặt, lắc hoặc gật đầu khi nghe câu hỏi bằng tiếng phổ thông, khiến cuộc hội thoại rơi vào bế tắc.
Buổi chiều, trưởng thôn Tủa dẫn chúng tôi tới nhà Sùng Thị Pà. Cô bé vừa đi nương về. Lưng Pà còn địu em gái, chưa kịp ăn cơm đã lao vào cùng chị dâu thái cỏ cho bò.
Cô bé 13 tuổi, nghỉ học suốt một tuần vì lúa trên nương đã chín rộ, không ai gặt giúp. Trưởng thôn Tủa “vận động” mãi, Pà mới chịu gặp. Cuộc trò chuyện với cô học trò lớp 7 chủ yếu qua những cái gật, lắc đầu hoặc im lặng. Em chỉ nói được vài từ tiếng Việt.
Chúng tôi đưa cho Pà một trang viết tiếng Việt. Đó là một khổ trong bài thơ “Thương ông”, nội dung được dạy trong chương trình tiểu học. Cô bé ban đầu chỉ cúi đầu nhìn trang giấy im lặng. Sau một lát được động viên, Pà lúng búng đọc, không rõ từ, cũng không rõ dấu; phải biết trước nội dung mới đoán được cô bé đang đọc gì.
Chúng tôi cố hỏi tiếp Pà: “Bây giờ chép lại được không?” – nhưng rồi nhanh chóng đầu hàng trước vẻ mặt khổ sở của đứa trẻ.
Sùng Mí Cấu lớn lên một mình trơ trọi như cái cây giữa bản Sán Sì Tủng -bản nằm cheo leo sau sườn đá tai mèo của xã Sà Phìn. Cấu không cha, không mẹ từ năm 7 tuổi. Ba anh em trai trứng gà trứng vịt nương tựa nhau lớn lên. Cho đến năm trước, anh trai Cấu học xong lớp 9 rồi theo bạn vượt biên đi làm, gửi hai đứa em cho chú nuôi. Cấu chẳng biết anh làm gì, ở đâu, kiếm được bao nhiêu tiền. Thi thoảng anh về, ăn bữa cơm, ngủ với hai đứa em một đêm rồi sáng hôm sau lại đi.
Cấu học bán trú, ăn ở đã có nhà nước nuôi. Mỗi lần nó xuống trường, chú lại dúi cho 10.000 đồng – gọi là sinh hoạt phí. Ở bản Sán Sì Tủng này, 5 bạn học lớn lên cùng Cấu đều đã nghỉ. 3 đứa ở nhà, 2 em đi làm thuê bên kia biên giới.
Mười nghìn đồng chú cho, thỉnh thoảng Cấu để mua quà vặt, nhưng nhiều lúc, nó không tiêu gì, hết tuần lại cầm về để dành .
“Học xong lớp 9 em cũng nghỉ thôi. Sang với anh trai. Không có tiền đi học tiếp nữa”, đứa trẻ 14 tuổi dự tính cho tương lai.
Thằng bé có đôi mắt buồn, không có nhiều thú chơi, lúc rảnh rỗi thường ngồi trên các chỏm đá nhìn xuống cung đường hình chữ M uốn lượn trên nền đá. Đi hết chữ M ngoằn ngoèo ấy là xuống tới Quốc lộ 4C. Con đường trải dài qua Quản Bạ, Yên Minh đến tận Đồng Văn, Mèo Vạc làm say mê dân du lịch, cũng là đường ra đi của nhiều đứa trẻ sống ở địa đầu phía Bắc này.
Khi “đọc không thông, viết không thạo” trở thành nguyên nhân của “bỏ học, qua biên giới làm thuê”, thì tương lai của những lớp người tiếp theo như Pà, Cấu dường như đã được định đoạt.
“Việc học sinh vùng biên giới bỏ học đi làm ăn xa không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế địa phương hay là vấn đề của riêng giáo dục mà còn liên quan đến an ninh quốc phòng”, GS Nguyễn Minh Thuyết, Nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên Nhi đồng của Quốc hội nhận định.
Ông lý giải việc học tiếng Việt của học sinh vùng cao gặp khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như phương pháp dạy học của thầy cô chưa phù hợp; học sinh có phần thiếu chủ động hỏi hoặc nhờ giáo viên giải đáp. Theo GS Thuyết, cần phải tạo một môi trường giao tiếp cho các em học tiếng Việt.
“Suốt học kỳ đầu, em chưa bao giờ dám nói chuyện hay hỏi bài thầy cô giáo, dù có nhiều từ tiếng Việt không hiểu”, Chá Mí Sùng nói về việc học tiếng Việt trên lớp bằng âm sắc đặc trưng của người Mông.
Sùng có thể đọc hết một bài thơ, văn nhưng em không thể phân tích hay giải nghĩa được. Sùng không dám hỏi vì ngại. Em từng nghe tiếng cô “chất vấn” một học sinh hỏi bài “bạn khác làm được sao em không làm được?”.
Sùng mặc định không hiểu thì hỏi bạn, không hỏi thầy. Bạn không hiểu thì không hỏi nữa.
Chá Mí Sùng kiếm được 35 triệu sau một năm vượt biên và dành hết tiền để cưới vợ.
Sùng gặp Dớ trong một phiên chợ đầu xuân khi đi chơi với đám trai bản vào năm ngoái. “Ban đầu có yêu đâu, em thấy nó thì ưng nên bắt về”. Thấy Sùng đẹp trai, khỏe mạnh nên Dớ cũng không phản kháng. Dớ là người xã Xín Cái, học hết lớp 5 thì nghỉ ở nhà đi nương rồi lấy chồng.
Thiếu phụ 17 tuổi ngồi ôm con gái đầy tháng, nghe khách hỏi chuyện bằng tiếng Việt thì ngơ ngác, rồi thẹn thùng giấu mặt sau lưng chồng. Khách nói tiếng Kinh, Dớ nói tiếng Mông. Toàn bộ cuộc trò chuyện đều nhờ Sùng “phiên dịch”. Không có dấu hiệu nào cho thấy cô gái này đã trải qua công cuộc “phổ cập tiểu học”.
Sùng tính thu lúa, ăn Tết xong sẽ quay trở lại bên kia biên giới đi làm. Anh trai và chị dâu giờ đang phụ hồ bên đó. Em trai kế Sùng, tên Chá Mí Li dự định học xong lớp 9 cũng theo các anh đi làm. Cô bạn cùng đi học phổ thông với Sùng, tốt nghiệp lớp 12 giờ cũng đang làm thuê bên kia biên giới.
Xuất ngoại nửa năm, Sùng Mí Tú mang về được 16 triệu. Cậu mua một con bê đực hết 15 triệu “để cho nó giữ tiền, mình giữ thì sớm muộn cũng tiêu hết”. Còn một triệu, Tú mua hai bộ quần áo và để tiêu vặt. Lập trường của nhiều cộng đồng thiểu số dọc biên giới này với nền giáo dục phổ thông được tổng kết bằng câu nói của trưởng bản Hầu Lùng Sán: “Học lên trung cấp, đại học hết trăm triệu mà về không có việc thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì”. “Lại sang Trung Quốc làm thuê thôi” – ông kết luận.
Thượng úy Chu Thanh Xuân dùng tỷ lệ lần lượt là 80% và 50% để nhận định khả năng nghe, nói tiếng Việt của học sinh quanh khu vực đồn biên phòng Bảo Lạc (Cao Bằng) – nơi anh từng đóng quân.
Xuân từng kèm hai học sinh lớp 7. Chảo A San và Chủng Tào Líu sống ở sát biên giới, suýt bỏ học vì nhà nghèo. Ba năm ở với bộ đội biên phòng, hai đứa lên tiếp phổ thông và đạt học lực khá. Trước, chúng “xưng hô chào hỏi hạn chế” thì giờ nói tiếng Việt “vanh vách như người dưới xuôi”.
Xuân biết, khó nhất với học sinh vùng cao là luyện phát âm lẫn thói quen nói tiếng Việt. Bởi ngôn ngữ quốc gia hầu như chỉ dùng trên lớp, trong các cuộc giao tiếp giữa thầy với trò. Còn về nhà là những đứa trẻ dùng tiếng mẹ đẻ. Việc nói tiếng Việt trên lớp với các em như cưỡi ngựa xem hoa. Dù nhiều nơi có lớp học bán trú, nhưng vẫn là người cùng làng bản ở với nhau và nói bằng tiếng của dân tộc mình.
Học sinh từ lớp 6 trở lên cũng có thể nói được nhưng chưa nghe ra tiếng phổ thông. Mà không nói sõi thì càng học lên cao các em càng gặp khó, đặc biệt trước môn xã hội hoặc giao tiếp trước đám đông. Gặp khó thì nản rồi nghỉ học như là tất yếu.
Trước năm 2013, xóm Sà Phìn của xã Xuân Trường nằm sát biên giới Việt – Trung từng có 100% học sinh chỉ học đến lớp 5 rồi nghỉ, không chuyển tiếp cấp hai. Những đứa trẻ người Mông, Dao, Tày, Nùng lại vượt biên đi chặt mía, làm cỏ, bốc vác, kiếm vài trăm mỗi ngày.
Năm 2014, những người lính biên phòng, bằng một chương trình riêng trong vòng ba năm, đã đỡ đầu hoặc nhận nuôi dưỡng hơn 2.600 đứa trẻ, giúp chúng học hành và có môi trường giao tiếp tiếng Việt tốt hơn bạn cùng tuổi.
Các chiến sĩ Đồn biên phòng Tả Gia Khâu (Lào Cai) có cách để “bắt” anh em 7 tuổi Ma Seo Xuyên và 9 tuổi Ma Seo Khoa phải thường xuyên nói chuyện bằng tiếng Việt. Nếu thấy Xuyên đi qua không nói gì, các anh nhắc “Xuyên à, không chào chú à?”. Thằng bé im lặng, lại nghe nhắc tiếp “Chào chú đi con”. Thế là nó chào, mà phải chào to, dõng dạc như bộ đội báo cáo điều lệnh.
Hai đứa trẻ mồ côi cha, mẹ nuôi không nổi, được thượng úy Giàng A Trú đưa về đồn biên phòng, nuôi dưỡng suốt một năm nay. Anh Trú phải nhận là cậu ruột, cùng họ Giàng với mẹ để tạo lòng tin, chúng mới chịu theo.
Công cuộc phổ cập ngôn ngữ quốc gia cho hai đứa trẻ nói bập bõm tiếng Việt không đơn giản. Trú và các sĩ quan thay nhau mỗi tối dạy chúng tập viết, tập đọc theo sách giáo khoa chung. Có lần Trú “bốc hỏa” vì chúng không nhớ nổi mặt chữ cái dù đã được hướng dẫn nhiều lần. Anh phải lấy cớ đi ra ngoài một lúc cho bớt giận rồi vào dạy tiếp.
Một năm sau, hai anh em biết đọc, biết viết, biết chào hỏi thường xuyên. Giáo viên đánh giá các em nói tiếng Việt và học khá hơn những bạn không được kèm thường xuyên khiến Trú tự hào: “Có lẽ, từ ngày ở với bộ đội mới biết chữ, nói được tiếng Việt”.
Những đứa trẻ sinh ra ở Đồng Văn như Sùng Mí Tú, Sùng Mí Cấu có khi cả đời không đi hết cao nguyên đá, nhưng chưa kịp lớn lên đã dễ dàng quyết định bỏ học sang bên kia biên giới đi làm thuê. Những đứa trẻ ra đi, để lại bản làng hoang hóa xám tro như màu núi đá. Nơi ấy mỗi mùa xuân hoa đào nở mới, nhưng nhịp phát triển kinh tế thì dừng lại, việc phổ cập tiếng Việt dường như cũng đang dậm chân tại chỗ. Ba tháng nay, Tú ở nhà, ai có việc cần thì gọi. Thầy giáo muốn giúp nó có thêm thu nhập nên hay gọi bê ong chuyển đi các nơi. Ba lần thầy thuyết phục Tú thi lấy bằng lớp 9, rồi học lấy một cái nghề. Nhưng đứa trẻ vẫn chần chừ. Thằng bé có mái tóc undercut rất hợp thời, nói chuyện lưu loát, thi thoảng còn thêm những câu bông đùa để chọc cười người đối diện. Đi làm rồi, nó bạo dạn hẳn, chỉ có cái chữ học trong 9 năm thì rơi rụng gần sạch. “Nhiều đoạn em phải đánh vần mới đọc được cái này. Học khó lắm, nên chắc em không quay lại đâu”, Tú chỉ lên bức vách tường trình, nơi dán mấy tờ báo Hà Giang.
Theo Vnexpress