Giải quyết tranh chấp đất đai với người Việt định cư ở nước ngoài thế nào?
Ngày đăng : 11:33, 21/03/2017
Nội dung vụ việc:
Theo đơn khởi kiện của anh Nguyễn Viết T; lời trình bày của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh T và em trai là Nguyễn Viết V trước đây thường trú tại Đức, không có hộ khẩu tại thành phố H. Năm 1994, thông qua việc bán đấu giá quyền sử dụng đất của UBND thành phố H nên bà Dương Thị Đ (mẹ đẻ của anh T và anh V) có nhờ ông Nguyễn Viết B đấu giá đất và trúng thầu lô đất diện tích 90m2 tại phường T, thành phố H. Tiền đấu thầu đất là của anh T.
Ngày 28/5/1994, UBND thành phố H đã có Quyết định số 467/VP-UB ngày 28/5/1994 cấp đất làm nhà cho anh T. Năm 1998, bà Đ đã xây dựng một căn nhà trên diện tích đất trên từ nguồn tiền của 3 người gồm anh T, bà Đ, anh V, hiện bà Đ, anh V và chị Đoàn Thị N (vợ anh V) đang ở. Ngày 30/6/2003, anh T được UBND thành phố H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên “hộ ông Nguyễn Viết T”.
Anh V và bà Đ trình bày: Thời điểm đấu giá quyền sử dụng đất cả anh V và anh T đều đang ở Đức, không có hộ khẩu tại thành phố H, nên bà Đ đã nhờ ông B làm hồ sơ đấu giá khi trúng thầu đứng tên ông B. Đến ngày 10/01/1994, ông B viết tay Giấy chuyển nhượng quyền trúng thầu đất ở cho anh T, có xác nhận của UBND thành phố H. Tiền đấu giá quyền sử dụng đất do anh V góp 3.000 USD, anh T 4.000 USD, còn lại là của bà Đ.
Lời khai ông B xác nhận, khi làm thủ tục đấu thầu, chuyển nhượng cho anh T mọi hồ sơ, chữ ký đều do ông B tiến hành vì lúc đó anh T đang ở nước ngoài, tiền mua đất là do bà Đ đưa cho ông mua chứ ông không biết nguồn gốc.
Năm 2009, anh T nhiều lần yêu cầu anh V trả nhà nhưng anh V và chị N không đồng ý nên đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh V và chị N phải trả lại diện tích đất và nhà ở nêu trên.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X320937 ngày 30/6/2003 của UBND thành phố H cấp cho hộ anh Nguyễn Viết T. Sau đó nguyên đơn rút đơn khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố.
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2016/DS-ST ngày 22/3/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh H đã tuyên: Chấp nhận yêu cầu rút đơn khởi kiện và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đòi lại tài sản là nhà và đất của nguyên đơn. Chấp nhận yêu cầu phản tố của chị Đoàn Thị N và anh Nguyễn Viết V; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X320937 ngày 30/6/2003 đã cấp cho anh Nguyễn Viết T.
Nội dung vụ án nêu trên có 02 quan điểm giải quyết:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyết định 467 nêu trên, mới là “Quyết định cá biệt” thuộc sự điều chỉnh của Điều 32a BLTTDS (nay là Điều 34 BLTTDS 2015) và Tòa án phải hủy Quyết định trên mới chính xác, còn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa nhà nước và người sử dụng đất nên không thuộc nội dung điều chỉnh của Điều 32a BLTTDS. Trường hợp này Tòa án chỉ được kiến nghị thu hồi Giấy CNQSDĐ số X320937. Ngoài ra phần Quyết định của bản án lại tuyên “ Các bên có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định”. Như vậy, bản án không giải quyết triệt để vụ án, không nhận định thửa đất trên thuộc quyền sở hữu của anh T, bà Đ, hay anh V và chị N mà tuyên như phần quyết định không xác định quyền sở hữu thuộc về các bên đương sự tham gia tố tụng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyết định 467 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X320937 nêu trên đều là Quyết định cá biệt. Tại khoản 2 Điều 2; khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06-01-2014 của TAND tối cao – VKSND tối cao – Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Điều 32A của BLTTDS đã được sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định: Tòa án chỉ thụ lý giải quyết “…khi xác định quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật và đương sự có yêu cầu bằng văn bản hoặc trình bày yêu cầu tại Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự”.
Trong vụ kiện này, các đương sự không yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm hủy Quyết định 467 do vậy không có căn cứ để giải quyết mà chỉ yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ, Tại Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “… có chứa nội dung quyết định hành chính được áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng…”. Việc Bản án sơ thẩm không hủy Quyết định này là đúng. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm có quyền kiến nghị với UBND thành phố H yêu cầu thu hồi và hủy bỏ Quyết định này nhưng bản án không đề cập là có thiếu sót (đến ngày 01/7/2015 Điều 34 BLTTDS 2015 đã quy định cụ thể hơn).
Về phần quyết định của bản án tuyên “ Các bên có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định”. Do nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện, Tòa án đã đình chỉ xét xử vụ án, quá trình giải quyết các đương sự đều khai tiền đấu thầu đất do 3 người đóng góp, các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết việc tranh chấp góp tiền mua chung diện tích đất trên, trong khi đó anh T (đang định cư ở nước ngoài), theo Điều 80 Luật đất đai 1993 (Điều 183 Luật đất đai 2013), thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư tại Việt Nam được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, trong vụ án này anh T không được giao đất vì anh T đang sinh sống tại nước ngoài. Nếu các bên không thỏa thuận được ai là người sở hữu thửa đất và có tranh chấp, sẽ khởi kiện lại về việc người đầu tư tiền mua đất, quyền sở hữu nhà đất là của ai do Tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục chung ở một vụ kiện khác.
Trần Thị Ngọc
VKSND cấp cao 1