Những trường hợp ngoại lệ về nghĩa vụ giữ bí mật của Luật sư (Bài 1)
Ngày đăng : 10:43, 31/05/2017
Một trong những nguyên tắc cơ bản quan trọng của mối quan hệ giữa Luật sư và khách hàng là nếu không có sự đồng ý rõ ràng của khách hàng, thì Luật sư không được tiết lộ thông tin liên quan đến công việc mà Luật sư làm đại diện cho họ. Nói cách khác, Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng đã cung cấp với người thứ ba, kể cả đồng nghiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của Luật sư không được áp dụng. Nói cách khác, ngoại lệ này là những trường hợp Luật sư phải cung cấp hoặc có thể cung cấp thông tin bí mật của khách hàng cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền khi đáp ứng được một số điều kiện cụ thể. Ốt-xtrây-li-a và Hoa Kỳ là hai nước trong số các nước quy định về các ngoại lệ của nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng theo hướng đó.
1. Các quy định của Ốt-xtrây-li-a.
1.1. Quy định của luật hình sự về hành vi cố ý không tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng
Theo quy định của luật hình sự của các bang và vùng lãnh thổ của Ốt-xtrây-li-a thì hậu quả của việc Luật sư không tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng trong một số trường hợp nhất định là người này có thể bị truy tố về tội không tố giác tội phạm.
Tội không tố giác tội phạm được quy định tại các bộ luật hình sự của các bang và vùng lãnh thổ của Australia. Cụ thể, tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1899 của bang Queensland, Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1913 của bang Western Australia, Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1983 của vùng Northern Territtory, Điều 102 của Bộ luật hình sự năm 1924 của bang Tasmania, Điều 716 của Bộ luật hình sự năm 2002 của vùng Australia Capital Territory, Điều 241 Bộ pháp điển hóa luật hình sự của bang South Australia, Điều 326 Bộ luật hình sự năm 1958 của bang Victoria, Điều 316 Bộ luật hình sự năm 1900 (được sửa đổi, bổ sung năm 1990) của bang New South Wales, Australia.[1] Chủ thể tội phạm này là bất kỳ ai, trừ cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người phạm tội.
Khoản 1 Điều 316 Bộ luật hình sự năm 1900 (được sửa đổi, bổ sung năm 1990) của bang New South Wales, Australia [2] quy định nếu một người đã thực hiện một hành vi phạm tội nghiêm trọng[3] và người khác biết hoặc tin rằng hành vi phạm tội đã xảy ra và người này có được thông tin cụ thể mà thông tin đó có thể hỗ trợ cho việc bắt giữ được người phạm tội hoặc truy tố hoặc kết án người phạm tội nhưng không cung cấp thông tin đó cho cảnh sát hoặc cơ quan có thẩm quyền khác mà không có lý do chính đáng, thì có thể bị phạt tù đến hai năm. Khoản 2 Điều 316 nêu trên cũng quy định nếu một người đòi hỏi, đồng ý hoặc chấp nhận bất kỳ lợi ích nào cho bản thân người này hoặc cho người khác để thực hiện bất kỳ một hành vi nào nhằm không tiết lộ thông tin có được quy định tại khoản 1 Điều này cho cảnh sát hoặc cơ quan có thẩm quyền phù hợp thì có thể bị phạt tù đến 5 năm. Tuy nhiên, khoản 4 và khoản 5 Điều 316 của Bộ luật nêu trên cũng quy định việc truy tố những người không tiết lộ thông tin nêu tại khoản 1 Điều này phải được sự đồng ý của Tổng Chưởng lý bang New South Wales trong trường hợp thông tin mà người biết được hoặc làm họ tin tưởng rằng hành vi phạm tội đã xảy ra là thông tin mà họ có được trong quá trình họ làm một công việc cụ thể được quy định trong hướng dẫn của Thống đốc bang.[4] Danh sách những người hành nghề cụ thể quy định tại khoản 5 Điều 316 của Bộ luật hình sự năm 1900 (sửa đổi, bổ sung năm 1990) bao gồm: (a) Người hành nghề luật; (b) Bác sỹ; (c) Người hành nghề tư vấn tâm lý; (d) Người hành nghề y tá; (đ) Nhà nghiên cứu giáo dục bậc đại học[5]; (e) Giáo viên trường học; (g) Trọng tài viên; (h) Hòa giải viên.[6]
Như vậy, có thể nói rằng, khoản 1 Điều 316 Bộ luật hình sự năm 1900 (sửa đổi, bổ sung năm 1990) của tiểu bang New South Wales được áp dụng cho rất nhiều chủ thể khác nhau, bao gồm cả luật sư, bác sỹ, y tá, nhà nghiên cứu giáo dục đại học, trọng tài viên, hòa giải viên… nếu họ có hành vi che dấu tội phạm nghiêm trọng; việc truy tố họ đã được sự chấp thuận của Tổng Chưởng lý bang New South Wales. Trong trường hợp đó, hình phạt tù tối đa có thể được áp dụng cho họ là 02 năm tù.
Ngược lại, theo quy định tại khoản 2 Điều 316 nêu trên, thì việc truy tố có thể tiến hành đối với bất kỳ ai, kể cả luật sư mà không cần sự chấp thuận của Tổng Chưởng lý bang New South Wales. Cũng cần nói thêm rằng, cách quy định tại khoản 2 Điều 316 của Bộ luật hình sự của bang New South Wales cũng tương tự các quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1899 của bang Queensland, Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1913 của bang Western Australia, Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1983 của Northern Territtory, Điều 102 của Bộ luật hình sự năm 1924 của bang Tasmania, Điều 716 của Bộ luật hình sự năm 2002 của Canberra, Điều 241 Bộ pháp điển hóa luật hình sự của bang South Australia và Điều 326 Bộ luật hình sự năm 1958 của bang Victoria.[7]
1.2. Quy định về việc tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng tại các Bản quy tắc đạo đức hành nghề của Luật sư
Tại Ốt-xtrây-li-a các trường hợp luật sư buộc hoặc có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng còn được quy định tại các bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư. Cụ thể:
Tại Mục 9.2 của Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư do Hội đồng Luật pháp của nước Ốt-xtrây-lia ban hành năm 2015 quy định về một số trường hợp Luật sư có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng như sau:
a) Khách hàng cho phép (trực tiếp hoặc gián tiếp) tiết lộ;
b) Luật sư được luật cho phép hoặc luật quy định bắt buộc luật sư phải tiết lộ;
c) Luật sư tiết lộ thông tin với mục đích duy nhất để ngăn chặn tội phạm nghiêm trọng xảy ra;
d) Luật sư tiết lộ thông tin để ngăn chặn những tổn hại nghiêm trọng về thể chất cho khách hàng hoặc của người khác.[8]
Dựa trên quy định này, các bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư của các bang và vùng lãnh thổ của Ốt-xtrây-lia đều có quy định về các trường hợp Luật sư tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng tương tự Mục 9.2 Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư của Hội đồng Luật pháp của nước Ốt-xtrây-lia nêu trên.
Ths. Lê Mạnh Hùng
TAND tối cao
[2] The Crime Act 1990 có tại trang: http://www.austlii.edu.au/au/legis/nsw/consol_act/ca190082/s316.html.
[3] Điều 4 của Bộ luật hình sự năm 1900 của bang New South Wales định nghĩa tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có thể bị xử phạt tù từ 5 năm trở lên.
[4] New South Wales Law Commission, Report No93 “Review of Section 316 of the Crimes Act 1900( NSW) Law Reform” có tại trang www.lawreform.justice.nsw.gov.au/Documents/…/Report-93.pdf.
[5] New South Wales Law Commission, Report No93 “Review of Section 316 of the Crimes Act 1900( NSW) Law Reform” có tại trang www.lawreform.justice.nsw.gov.au/Documents/…/Report-93.pdf.
[6] Crime Regulation 2010 under the Crime Act 1900, có tại trang: www.legislation.nsw.gov.au/regulations/2010-442.pdf.
[7] Các bộ luật hình sự này có tại trạng: http://www.austlii.edu.au/au/legis.
[8] Law Counsil of Australia, http://www.legislation.nsw.gov.au/#/view/regulation/2015/244.(Còn tiếp)