Thừa phát lại trong thi hành án dân sự
Ngày đăng : 03:42, 08/03/2017
Thực hiện chủ trương xã hội hóa thi hành án dân sự, kể từ năm 2009, chế định pháp luật về Thừa phát lại được khôi phục tại Việt Nam. Từ đó đến nay, Thừa phát lại (Thừa hành viên) ngày càng trở nên quen thuộc. Trên thực tế, các dịch vụ pháp lý liên quan đến các công tác thi hành án dân sự mà Thừa phát lại cung cấp dần trở thành lựa chọn tối ưu cho các khách hàng. Đồng thời, Thừa phát lại còn góp phần san sẻ một phần trách nhiệm, áp lực công việc cho các cơ quan thi hành án dân sự.
Thừa phát lại xuất hiện tại Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc. Trong giai đoạn này, Thừa phát lại có khá nhiều tên gọi khác nhau như: Chưởng Tòa (ở miền Bắc), Mõ Tòa (miền Trung) hay Thừa phát lại (miền Nam). Khi đó, Thừa phát lại có các quyền hạn như: “Thông báo tòa khai mạc và bế mạc; gọi các đương sự, nhân chứng; thi hành lệnh giữ trật tự tại tòa; Tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của tòa án, lập các vi bằng…”.[1]
Còn hiện nay, Thừa phát lại được pháp luật trao quyền thực hiện các nhóm quyền hạn như:
– Tống đạt: bản chất của Tống đạt là việc thông báo, giao nhận các văn bản của Tòa án và Cơ quan thi hành án dân sự do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật.[2] Mặc dù, việc tống đạt các văn bản, giấy tờ là công việc khá đơn giản nhưng lại có tầm quan trọng và luôn chiếm khối lượng không nhỏ trong công việc của các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án dân sự. Bởi “đối với hoạt động tố tụng, cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng đem lại sự thông suốt cho cả quá trình tố tụng, chúng là các mắt xích quan trọng để tiến hành các trình tự tố tụng, chỉ cần các mắt xích đó “lỗi” hoặc “đứt” thì công tác tố tụng bị đình trệ, tắc nghẽn”.[3]
– Lập vi bằng: về bản chất, vi bằng là văn bản pháp lý do Thừa phát lại lập để ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác. Hoặc nói cách khác, vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Vi bằng là sản phẩm hoàn toàn độc quyền của riêng Thừa phát lại. Bởi ngoài Thừa phát lại thì không một chủ thể nào có quyền lập vi bằng.
– Xác minh điều kiện thi hành án: là việc thu thập thông tin về tiền, tài sản của các chủ thể cá nhân, tổ chức là đối tượng phải thi hành án. Nhờ có sự tham gia của Thừa phát lại, công tác xác minh điều kiện thi hành án trở nên hiệu quả và nhanh chóng hơn.
– Trực tiếp thi hành bản án, quyết định của Thừa phát lại: thi hành bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự là hoạt động do Thừa phát lại tiến hành khi trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự theo yêu cầu của đương sự và sử dụng những biện pháp nghiệp vụ được quy định trong luật Thi hành án dân sự. Trên thực tế, đây là hoạt động rất quan trọng và khó khăn của Thừa phát lại. Nhờ sự tham gia của Thừa phát lại, các bản án, quyết định dân sự đã nhanh chóng được thực hiện từ đó đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.
Như vậy, hiện nay, các dịch vụ pháp lý mà Thừa phát lại cung cấp đã bổ sung thêm lựa chọn cho các đương sự khi có nhu cầu liên quan đến các hoạt động của thi hành án dân sự. Tuy nhiên, về lâu dài, cần thiết xây dựng luật về Thừa phát lại như đã từng thực hiện với Luật sư và Công chứng viên trước đây. Bởi có như vậy, sự phổ biến và hiệu lực pháp luật của Thừa phát lại mới thực sự được củng cố và gây được sự tín nhiệm của đông đảo quần chúng nhân dân hơn.
TS.Nguyễn Vinh Hưng
Khoa Luật, ĐHQGHN
- [1] Tổng cục Thi hành án dân sự (2009), Sổ tay Thừa phát lại, Nhà xuất bản Thời đại, tr. 18.
- [2] Khoản 3, Điều 2, Nghị định số 135/NĐ-CP ngày 18/10/2013 về “sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh”.
- [3] Khoa Luật – ĐHQGHN (2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 189 – 190.