Những điểm mới về tranh tụng theo BLTTHS năm 2015
Ngày đăng : 02:24, 11/09/2016
Thứ nhất, quy định đầy đủ các quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa.
Đối với nhóm người buộc tội (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo), đã bổ sung một nhóm các quyền mới nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng cứ buộc tội làm cơ sở cho việc chuẩn bị bào chữa, như:
Quyền được các cơ quan THTT cung cấp đầy đủ các quyết định liên quan đến việc buộc tội;
Quyền được trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Quyền đọc, ghi chép ban sao hoặc tài liệu đã được đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao các tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra;
Quyền đưa ra chứng cứ thay vì chỉ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật như hiện nay…
Để bảo đảm quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 có rất nhiều sự sửa đổi, bổ sung quan trọng, cụ thể:
Mở rộng chủ thể được đảm bảo quyền bào chữa, theo đó, ngoài 03 chủ thể đã được bảo đảm quyền bào chữa: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được đảm bảo quyền bào chữa (Điều 58);
Mở rộng và chính thức ghi nhận địa vị pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý là 1 trong các loại người bào chữa, theo đó, BLTTHS năm 2015, Người bào chữa có thể là: (1) Luật sư; (2) Người đại diện của người bị buộc tội; (3) Bào chữa viên nhân dân; và (4) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Mở rộng diện người bào chữa theo chỉ định, theo đó cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà BLHS quy định mức cao nhất là 20 năm tù, thay vì mức cao nhất là tử hình như quy định của BLTTHS năm 2003;
Bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa, thay vì chỉ có người bị buộc tội và người đại diện hợp pháp của họ có quyền mời người bào chữa (Điều 75);
Thứ hai, quy định đầy đủ các quyền và cơ chế bảo đảm bảo đảm các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa, tham gia các hoạt động tố tụng hình sự.
Để bảo đảm tranh tụng dân chủ, cũng như đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, BLTTHS bổ sung quy định cho người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời, quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (Điều 73);
BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (kể từ khi có người bị bắt) thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như hiện nay (Điều 74). Đồng thời, ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, luật sư có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83);
Nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tránh sự nhận thức không chính xác rằng người người bào chữa tham gia tố tụng hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận hay không của cơ quan TTHS, BLTTHS năm 2015 đã quy định chuyển đổi thủ tục “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, đồng thời rút ngắn thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày xuống còn 24h nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận vào quá trình giải quyết vụ án. Văn bản thông báo người bào chữa (hình thức pháp lý công nhận đủ điều kiện đăng ký bào chữa) có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng, thay vì chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng như trước đây;
Nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam, tiếp cận ngay từ đầy với các chứng cứ buộc tội, gỡ tội trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ trình tự, thủ tục để người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam, cụ thể: Để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. Cơ quan quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam phải phổ biến nội quy, quy chế của cơ sở giam giữ và yêu cầu người bào chữa chấp hành nghiêm chỉnh. Trường hợp phát hiện người bào chữa vi phạm quy định về việc gặp thì phải dừng ngay việc gặp và lập biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (Điều 80). Bổ sung quy định về trách của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc bố trí thời gian, địa điểm để người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra khi người bào chữa có yêu cầu (Điều 82); Bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng để người bào chữa tham gia theo quy định của pháp luật (Điều 79);
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, theo đó để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (Khoản 2 Điều 88). Đồng thời, BLTTHS năm 2015 tiếp tục quy định: “Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. (Khoản 2 Điều 81).
Thứ ba, quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo đảm bảo việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa.
BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan THTT, như Viện kiểm sát, kiểm sát viên thực hành quyền công tố ngay từ khi cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục (Điều 145). Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục (Điều 165)…
Trong giai đoạn truy tố, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ của Viện kiểm sát thi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố như: yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố (Điều 236). Đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cơ quan điều tra thực hiện đầy đủ yêu cầu nêu trong quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát (Điều 245)…
Thứ tư, quy định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử
Với chủ trương Tòa án là Trung tâm, xét xử là trọng tâm, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, cụ thể: BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa; về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án; đề nghị của bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa về việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Điều 279).
Bên cạnh đó, nhằm khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều luật sư tham gia, nhưng đối với kiểm sát viên BLTTHS năm 2003 chỉ cho phép tối đa 02 kiểm sát viên tham gia. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng: Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì có thể có nhiều Kiểm sát viên (Khoản 1 Điều 289);
Đặc biệt, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo việc tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn được thể hiện ngay trong phần xét hỏi, BLTTHS năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên tòa với thủ tục tranh luận tại phiên tòa thành “thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” (Mục V, chương XXI). Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự xét hỏi, theo đó, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý (Khoản 1 Điều 307)…
Để có cơ sở tranh luận dân chủ tại phiên tòa, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về nội dung luận tội của Kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng.
Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật (Điều 321) và nhấn mạnh trách nhiệm của Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại Phiên tòa. Đồng thời bổ sung trách nhiệm của Hội đồng xét xử là “lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án) (Khoản 4 Điều 322)…
Diệu Anh