Những quy định mới có lợi cho người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra

12/09/2016 07:45

Thứ nhất, các quy định về quyền của người bị buộc tội Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, các điều 58, 59, 60 và 61 BLTTHS năm 2015 bổ sung cho người bị buộc […]

Thứ nhất, các quy định về quyền của người bị buộc tội

Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, các điều 58, 59, 60 và 61 BLTTHS năm 2015 bổ sung cho người bị buộc tội một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) đưa ra chứng cứ; (3) trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá(2); (4) có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (6) bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của Bộ luật này khi có yêu cầu; (7) bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý; (8) một số quyền khác. Đồng thời, quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.

Thứ hai, các quy định về bào chữa

Một là, mở rộng các khái niệm người bào chữa bao gồm cả Trợ giúp viên pháp lý (để bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách); người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng phải được bảo đảm quyền bào chữa (Điều 72).

Hai là, thay thế quy định cấp Giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa (Điều 78); theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm: Kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng.

Ba là, bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm để người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định (Điều 73), bao gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, cụ thể: Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; (3) thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Đồng thời, bổ sung nghĩa vụ của người bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án. Ngoài ra, cũng bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa như: Các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia; thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.

Ngoài ra, để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng; đồng thời, tạo thuận lợi cho người bào chữa trong quá trình thu thập chứng cứ, Điều 81 BLTTHS năm 2015 quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, gồm: Gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.

Bốn là, Điều 75 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa; bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào chữa từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.

Năm là, mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; quy định bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình (Điều 76); quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi có người bị bắt (Điều 72).

Sáu là, mặc dù người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố không thuộc nhóm đối tượng người bị buộc tội, tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, Điều 83 và Điều 84 quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này, như: (1) Quyền có người bảo vệ quyền lợi ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; (2) quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) yêu cầu giám định, định giá tài sản; (4) quyền tham gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và một số quyền khác.

Thứ ba, quy định về các biện pháp bắt

Các trường hợp bắt, bao gồm: (1) Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (2) bắt người phạm tội quả tang; (3) bắt người đang bị truy nã; (4) bắt bị can, bị cáo để tạm giam; (5) bắt người bị yêu cầu dẫn độ (Điều 109).

Về trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp; cụ thể: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành các hoạt động: (1) Lấy lời khai ngay người bị giữ; (2) ra quyết định tạm giữ; (3) ra lệnh bắt người bị giữ và gửi ngay cho Viện kiểm sát kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn hoặc trả tự do cho người bị giữ (Điều 110).

Những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt; trách nhiệm của cơ quan bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp truy nã; trách nhiệm của cơ quan đã ra quyết định truy nã (Điều 114).

Thứ tư, các quy định về biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế

Toàn bộ các biện pháp có tính cưỡng chế quy định trong các chương, các phần của BLTTHS được điều chỉnh chung trong Chương VII (Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế). Từng biện pháp được điều chỉnh bởi năm yếu tố: Căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành.

Một là, các quy định về căn cứ tạm giam và thời hạn tạm giam

Điều 119 và Điều 173 BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về các tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt chính là phạt tù trên 2 năm thì việc tạm giam chỉ có thể được áp dụng khi thuộc các trước hợp sau đây: (1) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; (2) không có nơi cứ trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; (3) bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; (4) tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; (5) có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; (6) tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; (7) đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Quy định chỉ có thể tạm giam bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định mức phạt tù đến 2 năm nhưng bỏ trốn nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Trong giai đoạn điều tra, BLTTHS năm 2015 đã rút ngắn thời hạn tạm giam 1 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 2 tháng đối với tội rất nghiêm trọng. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, BLTTHS năm 2015 cho phép gia hạn tạm giam đến khi kết thúc điều tra nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm quyền gia hạn tạm giam trong trường hợp này chỉ thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hai là, quy định về chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam (Điều 120 BLTTHS năm 2015) sửa đổi Điều 90 BLTTHS 2003, theo hướng cụ thể hóa, nhân đạo hơn, đặc biệt thông qua dẫn chiếu đến các quy định chi tiết trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 đối với việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, tạm giam.

Ba là, quy định về các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam. BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ ràng hơn về các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam(3). Việc áp dụng các quy định này cơ bản thỏa mãn điều kiện có lợi cho người bị buộc tội do đã cụ thể, minh bạch thời hạn áp dụng; theo đó, thời hạn áp dụng các biện pháp này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; đối với người bị kết án phạt tù thì không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù; cụ thể: Đối với biện pháp Bảo lĩnh (Điều 121): Quy định này đã mở rộng đối tượng nhận bảo lĩnh (cơ quan, tổ chức, cá nhân); cụ thể điều kiện nhận bảo lĩnh; quyền của các đối tượng nhận bảo lĩnh (được nhận thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh)…; đối với biện pháp Đặt tiền để bảo đảm (Điều 122): Quy định mở rộng đối tượng đặt tiền để bảo đảm (bổ sung thêm người thân thích của bị can, bị cáo); chỉ quy định đặt tiền, không quy định đặt tài sản; đối với biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 123): Quy định mở rộng diện người có thẩm quyền ra lệnh (bổ sung đối tượng Đồn trưởng Đồn Biên Phòng).

Bốn là, các quy định về biện pháp cưỡng chế. Theo nguyên tắc áp dụng có lợi cho người bị buộc tội đã nêu, Điều 127 quy định về biện pháp áp giải, dẫn giải với các đối tượng, trong đó có đối tượng người bị buộc tội, có thể áp dụng bởi lẽ quy định chặt chẽ thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng.

Đặc biệt, khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản cần áp dụng các quy định tại Điều 128 BLTTHS năm 2015 do nhiều quy định sửa đổi bổ sung tiến bộ, bảo đảm tốt hơn việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân (so với Điều 146 BLTTHS năm 2003). Ngoài ra, cùng với đó là cần áp dụng quy định Điều 130 BLTTHS năm 2015 về hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản.

Thứ năm, quy định về thủ tục lập biên bản và ký biên bản tố tụng trong các trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần mà không thể ký vào biên bản

Điều 133 BLTTHS năm 2015 quy định trường hợp người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người lập biên bản ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản. Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến. Trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.

Thứ sáu, các quy định về giám định và định giá tài sản

Về giám định có 10 điều luật (Điều 205 – Điều 214) trong BLTTHS năm 2015 điều chỉnh đầy đủ các nội dung liên quan đến giám định; bổ sung đầy đủ những vấn đề cần phải trưng cầu giám định; phân nhóm hợp lý các vấn đề cần trưng cầu và quy định thời hạn giám định cho từng nhóm; bổ sung những người có quyền yêu cầu giám định trên cơ sở giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng; xác lập cơ chế nhằm kiểm soát chặt chẽ quá trình trưng cầu và sử dụng kết quả giám định; theo đó, quy định trách nhiệm của cơ quan trưng cầu giám định trong thời hạn 24 giờ phải gửi quyết định trưng cầu giám định và kết luận giám định cho Viện kiểm sát, trong thời hạn 7 ngày phải thông báo kết luận giám định cho người tham gia tố tụng; quy định cụ thể thành phần và thủ tục giám định bổ sung và giám định lại; bổ sung cơ chế nhằm giải quyết xung đột giữa các kết luận giám định; theo đó, quy định trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền quyết định giám định lại và kết luận giám định trong trường hợp này có hiệu lực để giải quyết vụ án. Đặc biệt là quy định cụ thể về thời hạn giám định (Điều 208)

Về định giá tài sản, BLTTHS năm 2015 (từ Điều 215 – Điều 222) quy định các vấn đề cụ thể liên quan đến định giá tài sản trong tố tụng hình sự như yêu cầu định giá tài sản, thời hạn định giá tài sản, tiến hành định giá tài sản, định giá lại tài sản, định giá lại tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn, định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt, kết luận định giá tài sản, quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận định giá tài sản.
Ngoài ra, còn bổ sung một số các quy định có lợi cho người bị buộc tội như: Quy định lượng hóa cụ thể một số thời hạn tố tụng trong khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam (Điều 474, thay giải quyết ngay bằng trong thời hạn 24 giờ; Điều 481, thay xem xét, giải quyết ngay bằng trong thời hạn 24 giờ…); quy định về các trường hợp tạm đình chỉ điều tra: Điều 229 BLTTHS năm 2015 bổ sung trường hợp tạm đình chỉ điều tra khi yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra (ngoài những quy định tạm đình chỉ điều tra tại Điều 160 BLTTHS năm 2003); các quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi: Để bảo đảm sự phù hợp hơn với các Điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết, tham gia(5). Điều 413 – Điều 430 BLTTHS năm 2015 đã kế thừa và pháp điển hóa những quy định trong Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên (nay là người dưới 18 tuổi)(6).
TS. TRẦN HƯNG BÌNH
(Trích bài viết đăng trên tạp chí Kiểm sát số 16/2016)

(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang