Về phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự thẩm theo BLTTDS năm 2015

09/01/2017 09:49

Kể từ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 và mới nhất, ngày 25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, sau đây viết tắt là BLTTDS năm 2015), vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự luôn được cơ quan lập pháp và ngành Kiểm sát quan tâm.

Trong đó, đáng chú ý là quy định các trường hợp Viện kiểm sát (VKS) tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự sơ thẩm. Khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2004 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại…”. Thực tế, số vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự khiếu nại không nhiều nên VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm chiếm tỷ lệ khoảng 0,4% số vụ án Tòa án đưa ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV không bị hạn chế về phạm vi hỏi và phát biểu ý kiến. Điều 234 BLTTDS năm 2004 quy định: “Trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ tọa phiên tòa đề nghị KSV phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án”.

Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 mở rộng về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự. Theo khoản 2 Điều 21 BLTTDS và được hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 04) ngày 01/8/2012 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, không phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án (Điều 8 Thông tư liên tịch số 04).

Điều 21 BLTTDS năm 2015 kế thừa quy định của Điều 21 của BLTTDS hiện hành; đồng thời, bổ sung quy định VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với trường hợp Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Đáng chú ý, Điều 262 BLTTDS năm 2015 quy định KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời, bổ sung nội dung KSV phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Để hướng dẫn thực hiện BLTTDS năm 2015 liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, tới đây, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao sẽ sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 04. Đồng thời, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng sẽ sửa đổi, bổ sung hướng dẫn nghiệp vụ về  công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, trong đó, có nội dung phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.

Nhằm quán triệt, triển khai thực hiện BLTTDS năm 2015, trong đó có việc hướng dẫn và thực hiện nội dung phát biểu của KSV tại phiên tòa sơ thẩm, cần điểm lại thực trạng nội dung phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Điều 234 BLTTDS năm 2011 và hướng dẫn tại Điều 8 Thông tư liên tịch số 04; xem xét những vấn đề đặt ra để tới đây Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện thống nhất. Thực hiện quy định của BLTTDS hiện hành, một số KSV nhận thức không phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án, tức là không được phát biểu về nội dung, không đề xuất quan điểm giải quyết vụ án. Do đó, phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử thường là liệt kê việc tuân thủ đúng (hoặc không đúng) các trình tự, thủ tục tố tụng như việc chấp hành thời hạn gửi thông báo thụ lý, chuyển hồ sơ cho VKS; việc tống đạt các văn bản tố tụng; chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử, thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX), xác định tư cách của các đương sự, hoạt động của HĐXX; về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng theo các điều 56, 63, 65, 67, 68 BLTTDS. Song cũng có ý kiến cho rằng luật tố tụng không hạn chế KSV phát biểu về nội dung vụ án mà chỉ hạn chế KSV không được phát biểu đề nghị HĐXX chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của các đương sự.

Thực tế tham gia phiên tòa sơ thẩm, KSV thường tách bạch thành hai nội dung: Hoặc chỉ phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng; hoặc phát biểu về cả tố tụng và nội dung vụ án nhưng không có sự phân tích mối quan hệ giữa nội dung và tố tụng. Những quan điểm nhận thức như trên về phát biểu của KSV tại phiên tòa sơ thẩm đều phiến diện, chưa đầy đủ. Về bản chất, các trình tự, thủ tục tố tụng và nội dung vụ án có quan hệ biện chứng và thống nhất với nhau. Trường hợp KSV nêu việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mà không gắn với nội dung, quá trình giải quyết vụ án cụ thể, thì đó chỉ là liệt kê việc tuân theo các thủ tục tố tụng chung chung, không gắn với việc giải quyết các vụ án dân sự cụ thể. Do đó, để có bài phát biểu thể hiện đúng quyền hạn, trách nhiệm của VKS trong tố tụng dân sự, KSV phải nắm vững các nguyên tắc, các quy định của BLTTDS và nội dung vụ án, trên cơ sở đó, xem xét việc Thẩm phán, HĐXX vận dụng các nguyên tắc tố tụng, thực hiện quyền hạn, trách nhiệm theo quy định của BLTTDS để giải quyết vụ án cụ thể đó như thế nào. Ví dụ: Phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX tại phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, KSV phải xem xét toàn diện, đầy đủ các quy định tố tụng đặc trưng liên quan đến việc giải quyết loại tranh chấp quyền sử dụng đất, như thẩm quyền thụ lý của Tòa án, thủ tục hòa giải, thu thập chứng cứ về nguồn gốc đất tranh chấp, nội dung tranh chấp, tư cách của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… Thực tế cho thấy đây là những quy định tố tụng thường bị cơ quan, người tiến hành tố tụng vi phạm một cách cố ý hoặc vô ý dẫn tới việc giải quyết vụ án không khách quan, triệt để. Quá trình kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm, KSV rất khó phát hiện vi phạm về nội dung vụ án (áp dụng pháp luật nội dung) do chưa có bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án. Nhưng KSV hoàn toàn có thể và buộc phải nhận biết việc Thẩm phán, HĐXX chấp hành đúng hoặc không đúng các quy định pháp luật tố tụng. Đánh giá kết quả việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng là cơ sở để KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án.

Để hướng dẫn thực hiện Điều 262 BLTTDS năm 2015 về nội dung phát biểu ý kiến của KSV tại phiên tòa sơ thẩm, có thể tạm thời phân chia ý kiến phát biểu của KSV thành hai nội dung: 1) Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; 2) Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Phát biểu ý kiến của KSV về việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng xét về phạm vi, đối tượng không thay đổi so với quy định của BLTTDS hiện hành. Tuy nhiên, với dung lượng bài phát biểu có hạn và đặt trong mối tương quan với nội dung phát biểu về việc giải quyết vụ án, KSV khi nghiên cứu hồ sơ phải quan tâm xem xét tất cả các quy định, thủ tục tố tụng mà Thẩm phán đã thể hiện trong hồ sơ. Nhưng khi chuẩn bị bài phát biểu cần cân nhắc tính chất, mức độ của vi phạm (nếu có) để đưa vào nội dung phát biểu; không liệt kê việc chấp hành các trình tự, thủ tục có tính chất hành chính tố tụng (như KSV nêu Hội đồng xét xử có đủ 03 thành viên gồm Thẩm phán, 02 Hội thẩm nhân dân). Mặt khác, kết quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật phải gắn với nội dung và quá trình giải quyết vụ án; căn cứ vào kết quả kiểm sát hồ sơ vụ án; nội dung tranh chấp; diễn biến phiên tòa, qua đó, xác định các quy định tố tụng quan trọng, có tác động trực tiếp đến việc giải quyết vụ án thì cần phải xem xét kỹ, từ đó, phân tích, đánh giá việc Thẩm phán, HĐXX sử dụng các quy định tố tụng này để giải quyết vụ án ra sao.

Nội dung KSV phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo Điều 262 BLTTDS năm 2015, đây là quy định mới so với BLTTDS hiện hành. Quy định này đặt ra một số vấn đề trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự. Theo đó, phát biểu ý kiến của KSV về việc giải quyết vụ án, cần làm rõ và xử lý hai vấn đề: Một là, phải xác định bản chất quan hệ tranh chấp, các căn cứ để giải quyết tranh chấp; hai là, đề nghị hướng giải quyết vụ án. Nội dung này có điểm tương tự nội dung phát biểu của KSV tại phiên tòa phúc thẩm (quy định tại Điều 273a BLTTDS năm 2011; hướng dẫn tại Điều 10 Thông tư liên tịch số 04/TTLT). Tuy nhiên, khác với phát biểu ở phiên tòa phúc thẩm, phát biểu của KSV tại phiên tòa sơ thẩm chỉ căn cứ hồ sơ do Tòa án lập; chứng cứ, tài liệu; lời khai của các đương sự; ý kiến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; trình bày của người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Tức là, Kiểm sát viên phải có kỹ năng phân tích, nhận định chính xác, đầy đủ diễn biến phiên tòa để củng cố hoặc điều chỉnh kịp thời quan điểm giải quyết vụ án ngay tại phiên tòa. Trong khi chứng cứ, ý kiến của các bên đương sự đưa ra thường trái ngược nhau nên việc định hướng giải quyết vụ án rất phức tạp.

Để làm rõ được quan hệ tranh chấp, KSV phải nắm vững các điểm cơ bản sau đây: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu vấn đề gì; quan hệ pháp luật từ đó phát sinh tranh chấp là quan hệ gì; tính chất và nội dung tranh chấp như thế nào; Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp có đúng hay không?; tư cách của nguyên đơn, bị đơn trong vụ án; các yêu cầu của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; các tình tiết khác liên quan đến tranh chấp. Bị đơn có yêu cầu phản tố hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hay không; quá trình giải quyết, đương sự có thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập không; yêu cầu của các bên đương sự có tuân theo quy định của pháp luật không. Xác định căn cứ để giải quyết tranh chấp là các bên xuất trình được những tài liệu, chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của các bên; xác định tính có căn cứ và hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do các đương sự cung cấp, do Thẩm phán thu thập; đánh giá tính đầy đủ của chứng cứ… Chỉ khi nào làm rõ được những vấn đề cơ bản nêu trên KSV mới có thể đề xuất quan điểm giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án là một trong những cơ sở để HĐXX tuyên bản án. Hội đồng xét xử chấp nhận hay không quan điểm giải quyết vụ án của KSV là dựa trên nội dung phát biểu của KSV có căn cứ thuyết phục hay không. Qua kiểm sát hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nếu KSV xác định chính xác, có căn cứ về quan hệ tranh chấp; đánh giá một cách khách quan, toàn diện các chứng cứ, tài liệu có liên quan của vụ án; xem xét thỏa đáng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thì mới bảo đảm đưa ra quan điểm giải quyết vụ án phù hợp.

Phát biểu của KSV tại phiên tòa là văn bản pháp lý, thể hiện quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án. Do vậy, đòi hỏi KSV phải lập luận chặt chẽ, nội dung thống nhất và đề xuất chính xác. Song, theo quy định tại các điều 262, 306, khoản 3 Điều 341, điểm g khoản 1 Điều 369, điểm c khoản 1 Điều 375 BLTTDS năm 2015 quy định: Ngay sau phiên tòa, phiên họp, KSV phải gửi bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ, việc. Đây là yêu cầu rất khó khăn đối với KSV tham gia phiên tòa sơ thẩm. Trường hợp phải gửi ngay sau khi phiên tòa kết thúc, KSV sẽ không kịp bổ sung, hoàn thiện bài phát biểu cả về hình thức và nội dung, quan điểm giải quyết vụ án. Nếu Thông tư liên tịch mới (thay thế Thông tư liên tịch số 04) quy định KSV gửi bản phát biểu cho Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa. Trường hợp này lại phát sinh vấn đề nếu phát biểu của KSV trái với tuyên án của HĐXX tại phiên tòa, thì sẽ xử lý tình huống này như thế nào.

Ngoài ra, để tránh tình trạng do nghiên cứu hồ sơ không kỹ, chưa nắm chắc nội dung vụ án nhưng khi tham gia phiên tòa sơ thẩm phải phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án thì KSV nên phát biểu về việc giải quyết vụ án ở mức độ nào để sau phiên tòa có thể sửa đổi, bổ sung nội dung phát biểu cho phù hợp, đúng quy định pháp luật.

Bùi Văn Kim (Vụ 9) VKSNDTC

Đăng TCKS số 5/2016.

Những trường hợp không được quyền khởi kiện

(Kiemsat.vn) - Người khởi kiện không có quyền khởi kiện khi không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc cho cơ quan, cá nhân mà mình làm đại diện...

Hướng dẫn về quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự

(Kiemsat.vn) - Từ ngày 01/01/2012, khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại vụ án đó thì Tòa án xem xét, thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang