Một số lưu ý về hiệu lực của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

02/07/2016 07:20

(kiemsat.vn)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ, nên khi áp dụng cần lưu ý về hiệu lực của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Thứ nhất, các quy định sau đây của Bộ luật Tố tụng dân sự có liên quan đến quy định của Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 thì có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017:
– Quy định liên quan đến việc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 4, các điều 43, 44 và Điều 45 của Bộ luật này;
– Quy định liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
– Quy định liên quan đến áp dụng thời hiệu tại khoản 2 Điều 184 và điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này;
– Quy định liên quan đến pháp nhân là người đại diện, người giám hộ.
Thứ hai, Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, trừ các quy định tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 tiếp tục có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2016, cụ thể:

Một là, về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu:

– Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực hiện như sau: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện; tranh chấp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

– Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân dân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.

Hai là, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết./.

HỒNG HẢI

Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự

(Kiemsat.vn) - Nghĩa vụ chứng minh của đương sự được hiểu là đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. BLTTDS năm 2004 thiếu quy định về thời hạn giao nộp, cung cấp chứng cứ đã tạo ra một lỗ hổng pháp luật là đương sự thường trì hoãn việc giao nộp.

Các trường hợp VKS kiến nghị trong tố tụng dân sự

(Kiemsat.vn) - Quyền kiến nghị trong tố tụng dân sự được thực hiện trong trường hợp VKSND phát hiện thấy hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng, không thuộc trường hợp kháng nghị
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang